Hồi ức một chuyện đời nửa thế kỷ
Tác giả: TRẦN TRUNG SỸ
Chỉ khoảng một tuần sau ngày Sài gòn sụp đổ, cậu tôi từ Hà nội đã vội vã vào Nam, bỏ lại hết ngoài ấy, trở về lại nhà, sau gần hai mươi năm kể từ ngày tập kết ra Bắc.
Gia đình cậu tức bên ngoại tôi sống ở một làng quê kế cận thành phố Huế. Từ ngày tôi lớn lên, nhớ lại, làng ngoại tôi bình lặng, không thay đổi gì nhiều. Bao nhiêu năm cũng chỉ một con đường đất đá nối từ quốc lộ 1 chạy băng ngang qua cánh đồng rộng mênh mông, mùa lụt nước trắng đồng, mùa hạ mùi đất ruộng và có lúc cả mùi hương lúa thoang thoảng dễ chịu. Đi vào làng con đường chạy dọc con hói nước đục, dẫn đến trung tâm gồm chợ làng, bao quanh là một vùng cây cối lớn kế cận đình làng và ngôi chùa khá khang trang. Con hói những tháng mưa có khi nước dâng lên ngập cả đường làng, tháng nắng nước rút xuống thấp, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con đò nhỏ. Thời chống Pháp, làng tôi nằm rìa chiến khu trên núi nên thường xuyên bị bố ráp, bắn phá. Ông ngoại tôi bị Pháp giết, các cậu và dì tôi đều tham gia kháng chiến, phần lớn tập kết ra Bắc năm 1954.
Mặc dù là vùng cận chiến khu xưa, truyền thống kháng chiến, nhà nào cũng có người tập kết, nhưng trong chiến tranh chống Mỹ làng tôi không bị chiến tranh tàn phá. Thỉnh thoảng người trên rú (núi) tìm cách bắt liên lạc chuyển về một số tin tức, thư từ và hình ảnh của thân nhân tập kết ngoài Bắc khiến một số người trong làng bị tạm giam, thẩm tra, xét hỏi, nhưng nhìn chung bóng dáng chiến tranh không thấy nhiều trong làng. Cái mất mát, tàn nhẫn, thù hận của hai phía ở đâu không biết chứ ở làng tôi ít khi nghe nói hoặc rầm rì với nhau.
Những năm 65, 66 chiến tranh bắt đầu lan rộng, một số vùng quê Quảng trị, Thừa thiên dần trở thành chiến trường khốc liệt, mức độ tàn phá của bom đạn khiến chết chóc và đau thương lan tràn. Nằm cách không quá xa vùng núi thường xuyên bị bắn phá, nhưng vì gần thành phố nên làng tôi vẫn được yên lành cho tới biến cố Mậu Thân.
Đối với gia đình cậu tôi, cái ngày cậu trở lại vào tháng năm năm 75 ấy cả nhà như sống dậy, mừng rỡ khóc òa. Hai mươi năm xa cách có nhận thông tin của cậu nhưng mợ tôi và các chị tôi không ai tin rằng chuyện trở về lại có thể xảy ra dễ dàng như thế này. Chừng ấy thời gian, cậu tôi trông có già hơn nhưng không khác trước là mấy, vẫn khuôn mặt đầy đặn, nước da ngăm đen, cặp mắt thâm quầng với một chút tinh nghịch khi cười, giọng nói chậm rãi hòa nhã. Đặc biệt hai mươi năm ra Bắc, lúc nào cũng trông trở về nhà, không nghĩ đến chuyện lập gia đình ngoài ấy như một số đàn ông tập kết khác, khiến niềm vui của gia đình hầu như trọn vẹn.
Cứ tưởng là niềm vui trọn vẹn, nhưng thật ra không đơn giản như vậy.
Ngày đầu tiên về lại nhà cậu tôi hạnh phúc lắm. Đi quanh một vòng, thấy không thay đổi gì so với ngày ra đi cậu tôi mừng ra mặt. Con xóm trước nhà và quanh vườn vẫn rợp bóng tre già. Nhà trên lẫn nhà dưới vẫn vậy, chỉ có mái nhà trước kia lợp tranh nay lợp tôn. Vẫn là tường gạch và vôi, nền nửa gạch nửa đất, riêng chuồng heo ở sau gần bếp là được xây lại bằng gạch đúc. Trước nhà vẫn cái sân đất rộng và chiếc bể cạn nuôi cá. Vườn nhà vẫn là ngày ấy, một số là cau, cam, chè còn lại là chuối, gồm chuối cau, chuối mốc và chuối cau quảng (chuối Đồng Nai). Phía sau nhà, cây giáng châu (cây măng cụt) phủ bóng, cành vẫn đầy đặn, không lớn hơn ngày xưa bao nhiêu. Không có gì thay đổi quả là điều đáng mừng sau bao nhiêu năm chia cắt.
Vậy mà vẫn có một thay đổi, đó là trên bàn thờ ông bà ở nhà trên, có thêm hình anh tôi, hình đen trắng đã nhạt. Anh tôi trong hình đội nón vải, mặc áo lính Cộng Hòa, cặp mắt sâu, nhìn xa xăm, rất buồn. Cậu tôi chắc đã biết chuyện về anh tôi, đã khựng lại một chút trong nỗi đau bất chợt khi ông thắp nén hương lên bàn thờ ông bà vào cái đêm đầu tiên về nhà.
Chỉ ngày đầu tiên là không có gì, sang đến hôm sau chuyện cái hình anh tôi trên bàn thờ trở thành vấn đề. Cậu tôi tỏ ý không muốn có hình anh tôi trên bàn thờ. Cậu phán thẳng với mợ tôi và các chị tôi rằng không thể thờ một đứa lính Ngụy, theo địch chống lại nhân dân. Lời phán của cậu làm mợ tôi bàng hoàng, nghẹn ngào, không nói được nên lời. Còn chị tôi con cậu chạy xuống nhà dưới ngồi lặng lẽ một góc nước mắt lưng tròng. Chị ấy cũng có chồng đi lính Cộng hòa, chắc lại càng thêm tủi thân.
Mợ tôi là một mẫu mực của phụ nữ Miền Nam có chồng con đi tập kết. Ngày ngày chỉ biết ra chợ làng buôn bán, một thân một mình tần tảo lo cho bốn đứa con. Không bao giờ tôi nghe mợ có một tiếng than vãn hay oán trách hoàn cảnh hay bất cứ ai. Sau khi phân bua trong nước mắt rằng anh tôi bị động viên đi lính như mọi người khác ở trong này, rằng anh tôi lúc nào cũng hết lòng lo lắng cho gia đình, rằng trong làng ai cũng thương mến vì tính tình của anh tôi. Có lẽ do không muốn đổ vở trong ngày đầu tiên vợ chồng đoàn tụ nên mợ tôi đã im lặng, đi chọn chiếc áo dài lành lặn nhất, cẩn thận mang hình anh tôi xuống gói lại trong chiếc áo, đem đặt cạnh chỗ đầu giường mợ nằm. Ngay từ trong ngày đầu tiên cậu tôi không còn vướng gì chuyện anh tôi, thế là yên tâm.
Chỉ sau có ai đó nói rằng hồi đi học, giá như anh tôi khai lý lịch cha và anh đã chết chứ đừng khai đi tập kết thì là con trai duy nhất sẽ được hoãn dịch, đâu có bị đi lính chết thảm. Có người bảo là anh tôi chịu chết vì không muốn chấp nhận cha và anh mình đã chết. Nghe nói câu ấy đến tai cậu tôi, ông mất ngủ cả mấy năm trời.
***
Anh tôi dù là anh em cậu cô, nhưng chúng tôi coi như thể là anh ruột lớn nhất trong nhà. Ấy là bởi vì khoảng mấy năm sau ngày cậu tôi tập kết ra Bắc và hòa bình trở lại, mợ tôi gửi anh về Huế ở nhà tôi để đi học trung học tại trường Bồ Đề. Ở trong một nhà, gần gũi thương mến nhau tình như ruột thịt.
Sống ở trên quê, nay được xuống phố nên tính anh nhường nhịn, không bao giờ to tiếng, tranh cãi với ai. Anh lại rất chịu khó,không nề hà, tránh né bất cứ chuyện gì ba mẹ tôi nhờ, cả việc nặng nhọc và dơ bẩn. Dù chưa là người lớn và phải đi học như chúng tôi, anh là tấm gương làm việc nhà và chịu đựng thiếu thốn, cực khổ cho chúng tôi noi theo.
Khác với cậu tôi và người anh đầu đi theo cậu, tự tin và vui vẻ, khuôn mặt anh tôi có nét hơi buồn, dù thỉnh thoảng cũng có nụ cười nhè nhẹ, rất hiền. Hình như anh nghĩ là nhà ở quê, nghèo, lại không có cha, phải nhờ sự giúp đỡ của o dượng về phố ăn học nên thấy không vui, đôi lúc không dấu được cái chắt lưỡi, chép miệng. Và có lẽ vì vậy mà mặc dù đi học ở trường Bồ Đề nhưng hầu như anh tôi không kết bạn với ai, tôi thấy ái ngại cho anh.
Hơi buồn và giống như yên phận là thế, nhưng anh ấy lại rất sống động khi giới thiệu cho tôi những bài hát kháng chiến. Những bài hát, câu hát kháng chiến qua giọng hát, một chút ngân, mộc mạc nhưng rất truyền cảm của anh tôi nghe từ thời nhỏ ấy như đã theo tôi đi suốt cả khoảng đời trai trẻ sau này.
“ Đèo, đèo Ba Rền.
Đi lên người ơi.
Cho ta nhắn đôi lời gửi về chiến khu.
Đây đi vô trong Nam,
đây đi ra Việt Bắc.
Nghìn trùng hiu hắt đường xa mấy ngày. . .”.
Sau chiến tranh khi đạp xe đạp ra lại Quảng Trị, qua đèo Ba Rền tôi bỗng nhớ chất giọng của anh khi hát bài này, bài Đường Rừng.
Hoặc bài Mùa đông Binh sĩ của Phan Huỳnh Điểu được hát trại :
“Mùa đông đến lạnh lùng, gió ào ào.
Lòng nhớ nhung người chiến sĩ dãi dầu chốn xa. . .”
Bài Tiếng hát sông Lô, anh ấy hát :
“Ai nhớ sông Lô giặc lên ăn cướp dân ta.
Tôi nhớ sông Lô
ngày nào chôn xác quân thù.
Khoan ơi khoan hò hò khoan.
Hởi anh Vệ Quốc cầm súng ngang tàng,
thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang.
Nửa đêm nghe tiếng quân thù là thù khóc than. . .”
Có khi là những bài hát hành khúc nghe rất phấn khích:
“Trai hùng Nam quốc
quyết đem thân ra sa trường.
Mau mài gươm giáo
đánh tan quân sài lang.
Hồn thiên ai đang đâu đây
giúp ta giết giặc chung.
Cùng tuốt gươm lên ta thề lời non sông. . .”
Những sáng tác nổi tiếng trong kháng chiến qua cảm xúc của quần chúng thường được đổi thay một cách đầy ngẫu hứng và bình dị cả âm điệu lẫn lời ca, nhiều lúc lại dễ đi vào lòng người hơn cả nguyên tác. Chính là anh ấy và những câu hát đầy cảm xúc ấy đã phần nào định hình tình tự kháng chiến trong tôi.
Anh ở nhà tôi được mấy năm cho đến khi trường trung học mở ở gần làng thì anh trở về nhà. Từ đó chúng tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau khi tôi về làng thăm bà ngoại. Những lần về quê ấy, tôi thường cùng anh đứng đạp bóc vỏ đậu phộng, bắt cá rô phi nuôi trong bể, ra vườn cuốc đất, rảnh rỗi cùng thi nhau leo lên cây giáng châu xem ai nhanh hơn và ngồi đong đưa, hoặc trưa hè ra ruộng lúa trái mùa nằm nghỉ trên thảm cỏ gió hiu hiu, nhìn lên trên vùng núi đồi núi xa xa phía tây.
Tôi nhớ có một lần anh đưa cho tôi xem thư và hình của cậu tôi ở Hà nội gửi vào, có lẽ gửi theo đường dây trên rú. Trong hình cậu tôi chụp chung với người anh đầu và vợ mới cưới nhân anh ấy lập gia đình, tất cả trông rất vui vẻ. Trong thư phần lớn nói tốt về cuộc sống ở ngoài ấy. Anh tôi có vui một chút nhưng rồi đâu lại vào đó. Tôi có cảm tưởng, với anh, những gì trong hình và thư như là ở một thế giới xa xăm, không dính dấp gì với cuộc sống hiện tại của anh và gia đình. Và vì vậy chỉ một lần đó, sau này không bao giờ tôi thấy anh nhắc đến chuyện ngoài ấy nữa.
Năm tôi vào học trường Quốc học, anh ấy không vào được như tôi. Vậy nhưng vì không muốn bỏ học,anh xin gia đình chấp nhận tốn tiền để được vào học tiếp đệ tam ở trường tư thục Bình Linh. Trường Bình Linh vốn là một trường dòng, tên cũ là Pellerin, bị bắt đổi tên Bình Linh hồi ông Diệm mới lên, trường có truyền thống lâu đời ở Huế, khá uy tín. Trường rất đẹp và bề thế,khuất mình trong bóng cây cao,nằm đầu đường Lê Lợi, gần ga Huế, cạnh sông Hương.
Đường Lê Lợi ở Huế là con đường học hành. Đầu đường gần Ga Huế có trường Bình Linh, có Tòa Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, nhìn qua bên đường là Đại học Luật khoa, đi dần xuống có hai trường trung học lớn là Quốc Học, trường nam và Đồng Khánh, trường nữ kế nhau, xuống nữa có Thư viện Đại Học, đến khu Morin có Đại Học Văn Khoa, Đại học Khoa Học, qua khỏi đường lên cầu Tràng Tiền có Trường Kiểu Mẫu và Đại học Sư Phạm, đó là chưa kể cạnh trường Văn Khoa có trường Trung học Bán Công khá lớn cũng đổ ra đường này. Người ta nói có thời điểm cứ mười người đi trên đường Lê Lợi có tới chín người không là học sinh thì cũng là sinh viên hoặc thầy giáo. Những ai qua thời học sinh ở Huế, đều cảm nhận được niềm hạnh phúc không dễ gì có được khi ngày ngày được hòa vào dòng xe đạp trên đường Lê Lợi bên bờ sông Hương rợp bóng cây long não. Nhất là vào những giờ khắc đi đến trường và tan trường về, được đạp xe đi hàng hai hàng ba với bạn bè trên đường, ngay cả đi trong yên lặng cũng cảm thấy một sự thoải mái, nhẹ nhàng, quên bẵng mọi phiền toái.
Từ ngày học Bình Linh, thỉnh thoảng anh có gặp tôi nói chuyện bài vở, về các sư huynh (frère) ở trường dạy hay. Vì trường tôi nằm trên đường anh đi học về nếu theo hướng đổ về phố, nên đôi khi tôi có gặp anh ấy sau giờ tan trường. Anh đi từ cầu Ga xuống, cũng hàng hai hàng ba, đạp xe chậm rãi với bạn bè trên đường Lê Lợi. So với ngày trước một mình thủ phận,không bạn không bè, giờ thấy anh hòa nhập được như vậy tôi rất mừng.
Mặc dù rất chịu khó học, nhưng anh tôi vẫn không qua được tú tài bán, thế là không tránh khỏi bị động viên. Sau ngày ông Diệm bị đổ, Huế thường xuyên biến động. Cùng với mối bận tâm ăn học, tôi cũng bị cuốn hút theo dòng thời cuộc. Anh ấy bị nhập ngũ lúc nào tôi cũng không hay, cho đến ngày gặp lại anh từ quân trường về trong bộ đồ lính, khá bất ngờ và lạ lẫm.
Hôm từ quân trường Đồng Đế trở về, anh ghé ở lại nhà tôi trước khi về làng. Tôi ngỡ ngàng vì sự thay đổi của anh. Đầu tóc cắt ngắn kiểu đờ mi, khuôn mặt ngăm đen nhưng tròn trịa, nói năng hoạt bát hơn và thỉnh thoảng không tiếc nụ cười. Không biết có phải vì mặc bộ áo quần lính trên người không nhưng giờ thấy anh rắn chắc hẳn, toát ra một sự tự tin. Lần đầu tiên xa quê một thời gian dài, sống trong môi trường và một thế giới khác hẳn, bị bắt hoăc tự biến mình thành một con người khác trước nên có quá nhiều điều anh kể với tôi. Đặc biệt tôi còn nhớ chuyện anh kể về một lần đi huấn luyện tấn công nhưng mục tiêu lại là một cứ điểm tình nghi có du kích. Thế là chiếm được mục tiêu nhưng đại đội anh bị chết một người, gọi là chết trong huấn luyện và người chết không ngờ lại là một người bạn học cùng lớp với tôi. Anh kể lại với sự thương tiếc người bạn tôi nhưng không giấu được một chút tự hào về chiến công ấy của tập thể học viên.
Năm năm sau khi tôi học hết đại học, trốn lính, bị bắt và bị đưa vào cái Trung tâm Huấn luyện này. Lúc này tôi mới dần hiểu được rằng vì sao anh ấy có thay đổi.
Chiến tranh ở Miền Nam, do phần lớn vẫn là đánh du kích, vai trò tiểu đội là rất quan trọng, quyết định thắng bại trên chiến trường. Nhiệm vụ của chỉ huy tiểu đội, thường là trung sĩ, là rất căng, đứng đầu sóng ngọn gió, đầu tên mũi đạn. Vì vậy không lạ gì trong cuộc chiến, chết trận nhiều nhất cũng chính là hàng trung sĩ. Trung tâm Huấn luyện Đồng Đế ở Nha Trang, nơi đào tạo hạ sĩ quan tức trung sĩ duy nhất phía Miền Nam, bởi vậy mà trách nhiệm là rất nặng nề. Lính ra trận sống chết nhiều hay ít phần nào được định đoạt từ đây. Quân trường này đã được coi như là một lò luyện thép đúng như câu mở đầu bài hát chính thức nghe có vẻ đầy tự hào của nó mà tụi tôi thường phải hát khi đi nhịp đều theo hàng quân :
“ Đây phù hiệu Trường Hạ Sĩ Quan,
lò luyện thép tân tiến nhất Việt Nam. . .”
Chế độ huấn luyện tại Đồng Đế cho hạ sĩ quan như tụi tôi hết sức khắc nghiệt. Ở đây học viên luôn phải đối đầu với sự vắt kiệt về sức lực và cái nguy hiểm rình rập, chịu không nỗi,sa sẩy một chút là khốn nạn. Nó thấm thía với lời đe dọa xanh rờn khi tôi chân ướt chân ráo vào trường rằng ở đây tụi tao được phép hao hụt trong huấn luyện là ba phần trăm. So với Đồng Đế, nhìn lại mấy tháng huấn luyện ở Quang Trung như đi dạo chơi. Chính vì vậy mà anh tôi và cả tôi sau này khi tồn tại và qua được chặng đường bị hành hạ và thử thách này đã thấy mình thay đổi, trở nên rắn rỏi, tự tin, không biết sợ nữa. Thứ nữa là ở nơi này người ta triệt để dùng hình phạt tập thể để trị, cá nhân làm sai cả tập thể chịu trận, phạt tất cả, không giải thích, không phân trần, không phân biệt. Bằng cách này để tăng tính trấn áp, khép vào kỷ luật thép, buộc thuần phục tuyệt đối, nhưng cũng do vậy mà hình thành tính đồng đội, vui buồn cùng nhau, con người không còn xa cách và khép kín. Anh tôi cùng với sự rắn rỏi, tự tin hơn đã trở nên cởi mở, có vui vẻ, đã có thay đổi. Nói theo giọng hồi đó: coi bộ chịu cơm lính.
Về lại quê, cấp bậc trung sĩ, trình diện tại Sư đoàn 1, anh tôi được điều động vào một trung đoàn bộ binh và đóng quân ở khu vực ở Thừa Thiên giáp ranh Quảng Trị.
Lúc này chiến tranh đang dần leo thang, đã có những trận đánh lớn giằng co trong các vùng núi và nông thôn thuộc hai tỉnh, anh tôi vì vậy lâu lâu mới được về phép thăm nhà. Vi tình hình chiến sự, gặp anh ngày càng ít, và khó khăn hơn. Qua mấy lần gặp lại sau này sự thay đổi nơi anh ngày càng rõ, đen hơn, gầy và thường tư lự. Không như ngày mới ở quân trường ra.
Cũng vào giai đoạn này tôi được biết mợ tôi đã đi hỏi vợ cho anh. Người con gái dạm hỏi cho anh là chi Ng. người cùng làng, cũng là chỗ quen biết với gia đình tôi, dì ruột của một người bạn thân với tôi. Mặc dù tôi và chi Ng rất ít gặp nhau nhưng tôi rất quý chị ấy. Gái ở quê nhưng cách xử sự và nói năng của chị ấy không khác gì một thiếu nữ ở phố, rất Huế. Giọng nói chị hơi nhất cao cuối câu, nhẹ, lời nói ân cần, dễ mến. Chị ấy bình dị, có quan hệ tốt với mọi người. Ngoài giờ làm việc chị có hoạt động gia đình Phật tử. Là huynh trưởng nữ của đoàn Phật tử thường sinh hoạt ở chùa làng nên trong làng ai cũng biết chị. Anh tôi không có gì nổi bật, nhưng được cái hiền, rất lo cho gia đình và ham học. Vẻ ngoài có lẽ nhờ có được đôi mắt buồn và nụ cười đôn hậu nên chị phải lòng. Tôi đoán là hai anh chị đã để ý và rồi quen nhau đã lâu, từ thời còn đi học ở làng. Tôi hiếm khi gặp hai anh chị đi cùng với nhau ngoại trừ một lần hai người đi xe đạp, chị trước anh theo sau, vừa đi vừa nói cười trên con đường dẫn vào làng gập ghềnh, giữa đồng ruộng, gió thì lồng lộng, đồng lúa nghe rì rào. Trông hai người rất tình tứ.
Chuyên dạm hỏi vợ cho anh tôi nghe nói hơi rắc rối. Mặc dù thương nhau đã lâu và cũng đến tuổi nhưng vì anh bị đi lính nên phải chờ, và khi trở về đáng ra có thể dạm hỏi được thì em gái của anh và anh trai của chi Ng lại được hai gia đình cho làm lễ cưới trước. Thế là lại phải chậm nữa. Nhưng lần chậm này lại có một chút vấn đề. Đó là trong bà con có người lo là nếu hai nhà cùng có anh trai nhà này lấy em gái của nhà kia thì sau này xưng hô làm sao, có người cho là không tốt, nên xem lại. Chuyện dạm hỏi có khựng lại một chút nhưng cuối cùng rồi cũng qua. Tôi đoán là tình cảm sâu đậm quá rồi gia đình phải chìều theo nguyện vọng của anh tôi và chị Ng. không thể để chậm hơn nữa.
Từ những năm 1966, 1967 chiến tranh chuyển qua giai đoạn khốc liệt. Đặc biệt ở Vùng I, mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên, những trận đụng độ lớn thường xuyên xảy ra ở cấp tiểu đoàn, trung đoàn giữa bộ đội Miền Bắc, bên này là quân Mỹ và quân đội VNCH. Thương vong là rất nhiều. Ở thành phố đêm nào cũng nghe tiếng đại bác vọng về, đôi lúc cửa nhà giật liên hồi vì tiếng dội của bom do B52 rải thảm. Cả nhà tôi rất lo cho anh tôi.
Có một chi tiết tôi không thể quên. Đó là khoảng giữa năm 1966, cả Miền Trung biến động vì phong trào đấu tranh của Phật giáo và Sinh viên nổ ra tại khắp các thành thị. Tại Vùng I Chiến thuật, cả Tướng Nguyễn Chánh Thi và sau đó là Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân đoàn I đều ngã theo Phong trào Phật Giáo. Xu hướng phản chiến ngày càng lộ rõ, trong các cuộc tập họp thường vang vọng câu hát “ Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai“, câu dạo đầu cũng là điệp khúc trong bài Tâm ca Số 7 của Phạm Duy lấy ý thơ Thích Nhất Hạnh. Một lần về thăm nghe tui tôi hát :
“ Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương.
Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu chưa an lành.
Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu đang chiến tranh…”
bài hát của Nguyễn Đức Quang, anh chăm chú nghe rồi hỏi xin bài hát ấy vì rằng anh thích và Đại Đội Trưởng của anh rất nghệ sĩ, hát rất hay nên anh muốn có bài hát này để góp vui với ông ấy. Nghe vậy tôi không chỉ thương anh tôi mà thương cả đồng đội của anh.
Trong những lần hiếm hoi về thăm nhà sau đó tôi thấy anh buồn hẳn, không nói không rằng, và tìm cách đi ngay. Tôi đoán có lẽ anh buồn vì đồng đội bị chết nhiều, rồi lo cho bản thân mình, cả cho chi Ng đang trông chờ không biết tính sao. Và cho đến . . . Mậu Thân.
Trong chiến dịch Tết Mậu Thân, mặt trận Huế và Thừa Thiên có khác. Hầu như khắp Miền Nam lực lượng tiến công đã băng qua các làng mạc, tránh các căn cứ, đồn lũy, tấn công thẳng vào các vào thành phố, thị trấn nhằm tạo tiếng vang, xoay chuyển cục diện chiến trường. Ở Thừa Thiên Huế, cùng lúc lực lượng vũ trang chiếm thành phố Huế, đầu não chính trị hành chánh tại khu vực, thì tại các làng mạc phụ cận dựa vào cơ sở tại chỗ, chính quyền cách mạng cũng được thành lập.
Là địa phương có truyền thống kháng chiến thời chống Pháp, hầu như trong làng tôi nhà nào cũng có thân nhân tập kết ra Bắc, sau khi bộ đội làm chủ Huế, làng tôi nhanh chóng lập chính quyền lâm thời. Và thế là cùng lúc súng nổ bom đạn gầm rú khắp nơi, trong làng tôi, ta và địch bắt đầu được phân biệt, lửa thù hận bắt đầu được thổi bùng. Đã có những vụ truy bắt và xử tội những người làm việc cho bộ máy chính quyền VNCH, đặc biệt là trong lực lượng công an, quân đội. Tôi có người dì, có cha và anh đầu bị Pháp giết, mẹ và em đi tập kết, từng bị chính quyền VNCH bắt lên bắt xuống, về sau phải lòng lấy chồng là một trưởng công an xã. Dì đã bị kết tội phản bội và bị xử tử từ ngày đầu tiên ngay giữa đình làng trước mắt mọi người trong đó có cả người thân. Trong Mậu Thân, bom và đạn pháo từ Hạm đội 7 của Mỹ đã không dội xuống làng tôi như ở Thành phố Huế và những nơi khác, nhà cửa, ruộng vườn trong làng hầu như không bị tàn phá, nhưng tang tóc thì vẫn xảy ra do hố sâu thù hận hình thành và những vết cắt ta và địch cứa nát lòng người.
Khoảng mười ngày sau khi Huế ngừng hẳn tiếng súng, anh tôi ghé nhà tôi. May mắn quá, anh vẫn không hề hấn gì, cả nhà tôi rất mừng. Anh trong bộ đồ lính hơi dơ, dính bụi đất, da sạm đen và người gầy hẳn, trông rất mệt mỏi. Khi hỏi ở đâu thời gian qua, anh kể lại. Khi thành phố Huế bị chiếm, đơn vị anh đang đóng ở căn cứ Cây số 17. Nghe tin Huế bị mất, cả trung đoàn rúng động, vậy là nhanh chóng tập hợp hàng ngũ và do không có xe di chuyển đã quyết định chạy bộ hơn mười bảy cây số để vào cứu Huế. Vào đến Huế, Trung đoàn của anh đánh vào cửa An Hòa nhằm tạo cứ điểm bàn đạp tiến vào Thành nội. Trận chiến ở cửa An Hòa rất ác liệt, dằn co nhau có đến cả hơn mười ngày các anh mới chiếm được và sau đó tiến dần về phía cửa Chánh Tây, và rồi Cửa Hữu tiếp cận với lực lượng Thủy Quân Lục Chiến. Về sau đi ngang cửa An Hòa, không thấy cửa đâu, chỉ còn thấy lởm chởm và trơ trụi những viên gạch vỡ đỏ ong chồng lên nhau tôi chợt nghĩ tới câu chuyện anh kể về trận chiến ác liệt tại đây.
Có một chi tiết anh kể khá buồn, là khi các anh chạy bộ ngang Triều Tây, phải cúi rạp và nhảy xuống ruộng chạy để tránh đạn vì từ trong làng tôi phía tây đạn bắn ra như mưa, có cả đạn cối.
Về làng tôi, sau biến cố này, may mắn là nhà cửa không bị tàn phá, bà con không ai bị chết do bom đạn. Thế nhưng riêng anh tôi, cái mất mát phải chịu lại qúa lớn. Đó là chi Ng. nghe nói đã rút đi cùng với người anh ruột vào vùng căn cứ ở phía tây, trên rú. Trong biến cố Mậu thân tại Huế, sau khi lực lượng phia bên kia rút ra khỏi thành phố mới biết được nhiều người bị xử chết, nhiều người bị đưa đi hoặc rút đi theo lực lượng chiếm đóng. Chị Ng. như một số người tôi biết do có hoạt động đoàn thể trong phong trào tranh đấu Phật Giáo, lại là thuộc gia đình tập kết, chắc có chút quan hệ trước, chị đã tham gia vào chính quyền lâm thời ở quê lúc Huế bị chiếm đóng nên sau đó không thể ở lại được đã rút theo bên kia.
Chị Ng. đi theo bên kia, anh tôi thấy suy sụp hẳn.
Khoảng gần năm tháng sau anh ấy mới trở lại thăm chúng tôi. Lúc này những dấu vết Mậu Thân trong thành phố Huế chỉ còn là những khoảnh đất trước đây vốn là nhà cửa bị bom đạn san phẳng nay cây dại đã bắt đầu mọc, những mảng tường đổ hoặc cháy xém và những vết lở lói trên tường thành đã chớm phủ chút bụi và phai màu do mưa nắng, những đổ nát của gạch ngói đã được dọn sạch, những hố bom sâu đã được lấp đầy. Mọi thứ xem ra đã được thu dọn, như vết thương đã được băng bó đàng hoàng, không còn phơi bày, rỉ máu. Hầu như cũng không ai buồn kể lại chuyện bom đạn chết chóc đã qua, không ai muốn làm nhân chứng cho một biến cố đấy nước mắt. Sự việc dữ dội và tang thương quá khiến tất cả yên lặng và chấp nhận như số phần.
Lần này, trong bữa cơm trưa với ba mẹ và anh em chúng tôi, anh tôi chẳng nói chẳng rằng, im lặng khác mọi lần. Sau bữa ăn đột nhiên anh dẫn tôi ra góc nhà cạnh bên, ngồi chồm hổm xuống cùng tôi, và từ từ móc từ trong túi áo ra một tờ giấy đầy chữ viết, lá thư của chị Ng. vừa mới gửi cho anh. Anh trao cho tôi và nói đọc đi. Tôi cầm tờ thư viết đầy kín bốn trang giấy tập học trò bằng bút bi, và đọc vội. Không đợi phải đọc hết, chỉ một đoạn mà cảm giác của tôi là hết sức ngỡ ngàng về nội dung và ngôn ngữ trong thư. Tôi cứ tưởng là trong thư sẽ là những lời giải thích về hoàn cảnh, tiếc nuối về sự chia lìa, nỗi nhớ nhung, thăm hỏi sức khỏe người thân, và . . . . nhắn nhủ giữ mình để cầu mong cơ may có ngày gặp được nhau, thì ngoại trừ lời mở đầu có thăm hỏi,nhớ nhung còn lại toàn bộ lá thư là một bài kêu gọi quay súng về với nhân dân như thường nghe trên Đài phát thanh Giải Phóng. Nào là dẫn ra thời cơ cách mạng tại Miền Nam, rồi kể lể chiến công bắn máy bay Mỹ tại Miền Bắc, nào là khuyên anh tôi ngừng bắn giết đồng bào, quay súng về với nhân dân, chấm dứt thân phận lính đánh thuê cho Mỹ. . .
Đọc xong, tôi lặng đi, trong một khoảnh khắc bất chợt hình bóng chị Ng. với chiếc áo dài lam cài phù hiệu đóa hoa sen màu xanh lục đứng ở hiên chùa chờ đợi, với giọng nói của chị cao ở cuối câu, ân cần và đầy tình cảm, với tiếng cười với anh tôi trên con đường làng lộng gió. . . tất cả như hiện ra trước mắt tôi. Tôi nói thầm chị Ng. mà như thế này à, chị Ng. mà như thế này à. Tôi nhớ lúc tôi trả lại lá thư, anh tôi nhíu mày, mặt khắc khổ. Anh hỏi tôi ý ra làm sao. Tôi chưa kịp trả lời thì anh đã nói thẳng với tôi luôn: “Em coi, nó là gì mà dám khuyên anh như vậy.”.
Cùng với câu nói nó là gì mà dám khuyên anh như vậy, lúc này, trong ánh mắt rất buồn của anh ấy tôi thoáng thấy có một nét cay đắng và chút tia giận dữ.
Và đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp anh.
Cuối năm 1968, mặc dù cả Miền Nam chiến cuộc tạm lắng nhưng riêng Vùng I, đặc biệt chiến trường Trị Thiên, đụng độ vẫn rất dữ dội gây thương vong nhiều cho cả hai bên, chúng tôi rất lo cho anh tôi.Và rồi chuyện cũng phải đến. Một buổi sáng tháng 10 năm ấy, gia đình chúng tôi nhận được tin anh tôi tử trận, xác đã được đưa về Quân y Viện ở Mang Cá.
Em tôi kể lại, khi đến nơi thăm xác anh, trông thảm thương lắm.Đầu và mặt anh ấy bị bị cháy đen nhìn không ra, chỉ biết là anh ấy nhờ bảng tên còn rõ trên áo. Thân thể phù to do chết đã năm ngày mới mang xác về được. Xác anh ấy đặt cạnh với xác mấy người lính khác. Một người cấp bậc cũng Trung sĩ cùng đơn vị được giao trực xác kể lại rằng anh tôi đáng ra có thể không chết, nhưng do sau khi tiểu đội vừa rút lui được nhìn lại thấy Đại Đội Trưởng của mình cùng một số anh em đang còn bị vây hãm rất nguy kịch, anh ấy đã quyết định đưa tiểu đội quay lại xông vào đánh rất rát để giải cứu ông ấy và đồng đội. Rất buồn là cứu được Đại Đội Trưởng nhưng anh tôi phải nằm lại. Người Trung sĩ ấy kể lại rằng sau khi được cứu, được tin anh tôi nằm lai, Đại úy Đại đội trưởng như điên như cuồng thề quyết bằng mọi giá phải tấn công vào để lấy cho được xác anh tôi về. Vậy là phải mất năm ngày cả đại đôi quần thảo dữ lắm với địch chấp nhận cả hy sinh mới lấy được xác anh tôi nên bây giờ do xác nằm mấy ngày mới phình to như thế này.
Phải vất vả lắm mới đặt xác anh vào được quan tài để đưa về làng chôn cất.
Hai mươi ngày sau ngày anh tôi mất, thì chúng tôi được tin chi Ng. cũng mất.
Chuyện kể rằng chiều hôm đó, mợ tôi đang ở nhà thì nghe tin keo réo ngoài đường dọc bờ hói rằng lính Nghĩa quân đang gánh xác chị Ng. từ trên rú về làng, xen lẫn giọng nói cười cợt rằng ra mà coi con heo này lớn nặng quá bốn người gánh mà muốn chết. Xác chị Ng, gánh về được bỏ ở giữa chợ làng gần đình cho mọi người xem như là chiến tích của Nghĩa quân làng giết được Việt cộng. Mợ tôi khóc kể lại, xác chị Ng. do mất mấy ngày rồi nên cũng phình to, áo quần nứt rách cả bày thân thể trông quá tội nghiệp. Đó là chưa kể mấy đứa Nghĩa quân khốn nạn trong làng thay vì thắp cây hương cho ngườì chết lại găm một điếu thuốc lá cháy đỏ lên xác ở vào chỗ kín. Một hành động giỡn cợt của lũ không còn tính người. Mợ thấy xót xa quá, dù gì đi nữa trước sau cũng là con dâu nên xin chuyển xác chị Ng. đi, nhưng tụi nó không cho vì mợ không phải là thân nhân nên đã để nằm tênh hênh ở chợ cả ngày cho đến khi gia đình chị ấy biết và đến nhận xác về.
Về cái chết của chị Ng, sau đó có người nói cho biết, ở căn cứ trên rú khi nghe tin anh tôi mất, chị đã lén về để thăm mộ anh. Không ngờ bị lọt vào ổ phục kích, chạy thoát,nhưng vì đã bị trúng đạn nên chết dọc đường. Nghe nói vậy tôi buồn lắm và tự trách mình. Giá như trước đây khi anh tôi trao thư chị cho tôi đọc và hỏi ý tôi mà nếu tôi lúc đó sáng suốt trả lời ngay rằng chị ấy đâu được quyền viết thư cho anh theo ý của chị, thì dù có chết đi anh tôi đâu có phải mang theo sự cay đắng đến giận hờn.
Trở lại chuyện cậu tôi hơn bảy năm sau đó, sau khi đưa hình anh tôi khỏi bàn thờ, mấy năm sau mợ tôi mất, cậu tôi bị đau liên miên không biết bệnh gì.Trong gia đình kể lại nhiều hiện tượng thấy mà ghê. Đó là trên bàn thờ có nhiều lúc đèn đang sáng vụt tắt, ly nước đang đầy bỗng nghiêng đổ. Người cậu thứ ba của tôi cũng tập kết trở về thấy không ổn khuyên cậu tôi rằng cũng là con cái,cũng vì hoàn cảnh, đâu có bỏ con được, nên đặt lại hình anh tôi trên bàn thờ. Nghe lời khuyên, cậu tôi cho đặt lại hình anh tôi lên bàn thờ chính trong nhà. Từ đó không còn hiện tượng lạ trên bàn thờ, cậu cũng bớt bệnh và sống lâu hơn mợ tôi được mấy năm.
Đã gần sáu mươi năm, chuyện về anh tôi dù đã hằn sâu trong ký ức của tôi nhưng với mọi người trong làng tôi hình như đã quên bẵng. Có chăng chỉ còn lời kể ngắn gọn về chuyên thờ phụng, về một người cha tập kết từ Bắc vào hạ hình đứa con trên bàn thờ xuống vì là lính Ngụy nên đã bị phát bệnh phải đưa lại hình con lên bàn thờ mới khỏi bệnh. Và về chuyện lấy vợ lấy chồng, về hai cặp vợ chồng lấy chéo, anh em nhà này lấy chị em nhà kia, và thế là một cặp chưa kịp làm đám cưới đã bị chết thảm.
Chỉ còn đọng lại có thế, chuyện thờ phụng và chuyện lấy vợ lấy chồng, không ai buồn nhắc đến chuyện chiến tranh.
TRẦN TRUNG SĨ, Tháng 4 năm 2022

