Trang chủ » BẾN XUÂN –  VĂN CAO VÀ MỐI TÌNH MỘNG ẢO

BẾN XUÂN –  VĂN CAO VÀ MỐI TÌNH MỘNG ẢO

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

10 tháng 7 – Tưởng niệm 30 năm ngày mất của Văn Cao.
Biên soạn: Hoàng Lan

Hầu hết các tình khúc của Văn Cao đều mang dáng dấp của mùa thu, âm điệu buồn man mác nhưng không sầu thảm bi lụy như thơ Apollinaire, ca từ lãng mạn nhưng rất trong sáng không gợn chút lả lơi như thơ tình Xuân Diệu. Ông sáng tác nhạc tình rất sớm, từ những năm chưa đến tuổi 20…

***

Ngày 10 tháng 7 cách đây 30 năm, Văn Cao từ giã cõi đời, để lại bao tiếc thương cho người hâm mộ đối với cây đại thụ tình ca. Sự nghiệp vinh quang trong nghệ thuật, lại đi kèm với oan khuất nghiệt ngã trong cuộc đời, Văn Cao đã bị đàn áp bầm dập suốt 40 năm.

Văn Cao ra đời tại Hải Phòng với tên thật Nguyễn Văn Cao, là một nghệ sĩ tài hoa đã cống hiến cho đời những tuyệt phẩm tình ca bất hủ mà mãi gần 100 năm sau, khi nhắc đến tên Văn Cao, giới thưởng ngoạn cũng như các nghệ sĩ sân khấu nghĩ ngay đến một thiên tài ngoại hạng của kho tàng tình ca Việt Nam. Giới phê bình âm nhạc từng tôn vinh ba nhạc sĩ tài hoa bậc nhất Việt Nam là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, trong lúc ấy thì Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đều thừa nhận Văn Cao là bậc đàn anh hơn hẳn mình. Điều đó cũng đủ nói lên vị trí của Văn Cao trong lâu đài nhạc tình Việt Nam.

Thế mà, ngoài niềm an ủi về một gia đình êm ấm và tấm lòng yêu mến của giới thưởng ngoạn nghệ thuật, Văn Cao đã gặp nhiều đối xử khắc nghiệt trong cuộc sống và sự nghiệp sáng tác âm nhạc. Kể từ sau vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm năm 1956, trong lúc ở miền Nam, Văn Cao là sao Bắc Đẩu của tình ca tiền chiến, ngày nào cũng được phát sóng trên đài, thì ở miền Bắc, nhạc Văn Cao không được phổ biến trong các phương tiện truyền thông đại chúng, ngoài ra, không có nhà xuất bản nào in nhạc của ông. Vì thế, Văn Cao gác bút và sống ẩn dật, vui thú cùng vợ con và quên đời bằng những ly rượu giải sầu. Mãi 20 năm sau, khi đất nước hoà bình thống nhất được một năm, Văn Cao có hứng thú chấp bút trở lại và sáng tác bài Mùa Xuân Đầu Tiên vào năm 1976. Bản nhạc tuyệt trần này được giới truyền thông nhanh chóng giới thiệu rộng rãi và được khán thính giả nhiệt liệt đón chào. Nhưng chỉ sau một tháng, tất cả bỗng dưng biến mất, không một lời giải thích. Thế là Văn Cao gác bút một lần nữa, lần này thì vĩnh viễn cho đến ngày ông mất năm 1995. Giá mà không có 40 năm oan nghiệt đó, có lẽ Văn Cao còn để lại cho đời thêm vài chục tuyệt tác tình ca không kém Suối Mơ, Bến Xuân

Cuộc đời cô đơn thê thảm trong thời gian ấy được Trịnh Công Sơn diễn đạt năm 1993: “… Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi không khí ảm đạm cô đơn của mùa Thu Đông ở Hà Nội với hình ảnh của Văn Cao ngồi một mình và ly rượu trước mặt, ngày này qua ngày khác. Ông ngồi đó mà như một sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn 20 năm như một cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly rượu đã trở thành hai cái bóng thân thiết chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng hiu quạnh, không còn ai khác có thể san sẻ giùm”.

Nhưng thôi, Văn Cao đã yên nghỉ ở chốn vĩnh hằng. Chúng ta hãy quên đi những oan khuất và nỗi buồn hiu quạnh của ông để trở về với những tình khúc vượt thời gian mà Văn Cao để lại cho hậu thế. Ở đây trong lĩnh vực này, có lẽ chúng ta không cần viết nhiều về Văn Cao. Hai chữ Văn Cao tự nó đã gợi lên trong chúng ta một hình ảnh huyền thoại cao ngất trời trong làng tân nhạc, một thiên tài tiên phong trong dòng nhạc tiền chiến, một tài năng thiên phú về tình ca mà mãi đến hôm nay chúng ta chưa thấy một người thứ hai.

Phạm Duy viết ngắn gọn: “Nói tới nhạc tình, Văn Cao là nhất! […] Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình trong làng tân nhạc thì những bài Bến xuân, Suối mơ … là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa”.

Hoặc nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phải ngỡ ngàng thốt lên sau một buổi đàm đạo với Văn Cao ở Hà Nội: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn Cao là âm nhạc của thần tiên bay bổng…”.

Nếu xét về số lượng tác phẩm thì Văn Cao không thuộc hàng đầu, nhưng nội dung, âm hưởng, chất thơ trong tác phẩm của Văn Cao có giá trị cao vời vợi. Khi chúng ta viết một bài khen ngợi tình ca Văn Cao, thì khó lòng có ai phản đối. Ông là một tài năng đa diện. Nhạc, thơ, họa, lĩnh vực nào cũng thành công rực rỡ. Nhạc tình Văn Cao mang đậm âm hưởng của tính lãng mạn trong thi ca và âm nhạc Pháp. Hầu hết các tình khúc của Văn Cao đều mang dáng dấp của mùa thu, âm điệu buồn man mác nhưng không sầu thảm bi lụy, ca từ lãng mạn nhưng rất trong sáng không gợn chút lả lơi như thơ tình Xuân Diệu. Cũng giống như những nhạc sĩ cùng thời, Văn Cao chịu ảnh hưởng lãng mạn tính của thơ văn Pháp với hình tượng mùa thu như một người tình muôn thuở. Nhưng dù bị mùa thu ám ảnh, thu của Văn Cao đã thoát khỏi nét liêu trai bi luỵ của những áng văn thơ diễn đạt mối sầu da diết, như “Mùa thu chết(nguyên tác: L’Adieu – Vĩnh biệt) của nhà thơ Pháp Apollinaire. Ca từ của Văn Cao thường phảng phất nét buồn nhẹ nhàng man mác của những bài thơ Đường, đẹp mơ màng như những bức tranh thủy mặc và trong sáng không gợn chút bụi trần như “ao thu lạnh lẽo nước trong veo”. Ông sáng tác nhạc tình rất sớm, từ những năm chưa đến tuổi 20.

Trong nhạc tình của Văn Cao, hình ảnh người yêu thường là hư cấu, chỉ thấp thoáng mơ hồ trong tâm trí, như lời Văn Cao tâm sự trong một bài phỏng vấn: “Hình tượng người thiếu nữ chỉ là hình ảnh của trí tưởng tượng. Trong không gian mơ hồ của tôi, hầu như tôi làm nhạc tình ái thì không có người đàn bà nào là thật. Tôi gặp và thầm yêu cũng nhiều, và cũng có nhiều người yêu tôi. Tôi thích cái đẹp nhưng lại sợ sự hòa nhập vào cuộc đời của người khác”. Cho nên, người tình trong tác phẩm của Văn Cao có lẽ là sự biến ảo giữa mộng và thực để tạo nên nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ Văn Cao gửi gắm cảm xúc vào tác phẩm.

Nhưng có một ngoại lệ mà lúc còn sống, Văn Cao ít khi nói đến, đó là bài Bến Xuân, là tình khúc được viết cho một người yêu có thực, dù chỉ là người yêu trong mộng tưởng, một mối tình đẹp nhưng đơn phương không đi đến hồi kết. Mối tình mộng ảo gói ghém trong tình khúc Bến Xuân được Văn Cao giữ kín và chỉ tâm sự với đôi ba người bạn tâm giao, để rồi mãi hai năm sau khi ông mất, năm 1997 người nghệ sĩ lão thành đó mới hé lộ ít nhiều về những điều mà sau này người con trai trưởng, nhà thơ Văn Thao cũng xác minh là có thật.

Vào thập niên 1940, Văn Cao là một trong những nhạc sĩ sáng lập nhóm Đồng Vọng do Hoàng Quý khởi xướng cùng với những nhạc sĩ tên tuổi thuộc lớp đầu tiên như Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân, Hoàng Phú (tức Tô Vũ), Phạm Hổ … Cùng thời đó, Hoàng Oanh là ca sĩ huyền thoại của đất Hải Phòng với vẻ đẹp sắc nước hương trời, với giọng oanh vàng thánh thót như tiếng sơn ca, với dáng dấp dịu dàng qúy phái của một tiểu thư khuê các thuộc gia đình giàu sang nhất nhì đất cảng. Người ta nói rằng, nhìn gương mặt thanh tú của Hoàng Oanh, hoa lá ngây cành không muốn động, chim sa và cá lặn, hoặc thấp thoáng nét đẹp kiêu sa của nàng Kiều: Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Hoàng Oanh xem ra không phải người trần, mà là hiện thân của tiên nữ hạ phàm cho nhiều trái tim thanh niên thổn thức, là nguồn suối ngọt ngào gợi hứng cho nghệ sĩ Đồng Vọng sáng tác những tình khúc để đời. Quả thật, Hoàng Oanh là nàng thơ hiện thân trong Bến Xuân của Văn Cao, là tiên giáng trần trong Cô Láng Giềng của Hoàng Quý.

Kể từ lúc Hoàng Oanh đến thăm nhóm Đồng Vọng để cùng nhau đàn ca xướng hát, cả nhóm nhạc sĩ như được hoà nhịp sống trong bồng lai tiên cảnh, vui tươi hơn, yêu đời hơn, viết nhạc siêng năng hơn, làm thơ nhiều hơn. Ai cũng muốn được ngồi bên cạnh đệm đàn cho Hoàng Oanh hát, và nàng sớm trở thành người hát thử đầu tiên cho mọi sáng tác của các nhạc sĩ Đồng Vọng. Với phong cách đệm đàn lả lướt, Văn Cao thường được Hoàng Oanh ưu tiên chọn lựa. Không có ngoại lệ, trái tim của mọi nhạc sĩ đều sớm trao về cho nàng tiên hạ trần, chỉ mong được làm Lưu Nguyễn kết bạn cùng tiên nữ dạo bước vào chốn thiên thai. Văn Cao tất nhiên cũng không thoát khỏi thường tình đó. Nhưng vốn bản tính nhút nhát, lại từng làm thơ tình giúp cho người anh Hoàng Quý gởi tặng Hoàng Oanh, Văn Cao thường im lặng, chỉ dám liếc mắt đưa tình những lúc còn lại hai người ở gần nhau. Còn Hoàng Oanh, với những tình khúc lãng mạn của Văn Cao, thêm tài xuất khẩu thành thơ, phóng bút thành hoạ, cộng thêm gương mặt xinh trai, dường như trái tim Hoàng Oanh cũng đã trao về cho chàng nghệ sĩ trẻ tuổi ấy. Nhưng trong lễ giáo thường tình thuở đó, hai người cũng chỉ biết trao gửi lòng mình qua ánh mắt đưa tình kín đáo. Có vẻ như hai người “tình trong như đã mặt ngoài còn e”

Thế rồi có một hôm, cha mẹ gọi Hoàng Oanh để báo cho con gái biết vừa có người chạm ngõ, và gia đình người dạm hỏi là Hoàng Quý, chứ không phải người tình thầm kín Văn Cao. Nàng buồn lắm và đau khổ đến rụng rời, nhưng lễ nghi gia giáo thuở ấy không cho phép con gái cãi lời cha mẹ trong chuyện hôn nhân. Mặc dù Hoàng Quý cũng là nghệ sĩ tài hoa đất Hải Phòng, cặp đôi này cũng đáng được gọi là trai tài gái sắc, cặp tài tử giai nhân xứng đôi vừa lứa, nhưng dường như trái tim Hoàng Oanh đã gửi gắm nơi khác mất rồi. Vì thế, nàng vượt qua mọi ràng buộc lễ nghi, đánh bạo đi liều một bước theo tiếng lòng để thử xem con tạo xoay vần đến đâu.  

Hoàng Oanh bạo gan đến thăm Văn Cao tại nhà riêng, đi một mình không dẫn theo hầu gái như thói quen thường tình. Một mình đến nhà thăm bạn trai là chuyện hiếm có thuở ấy. Có lẽ nàng chỉ mong Văn Cao nói lời tỏ tình, thay vì chỉ liếc mắt đưa duyên như bao lần từ trước. Nếu được thế, có lẽ Hoàng Oanh sẽ đánh bạo làm thêm một bước ngoặt, và cuộc đời sẽ rẽ về một hướng nào chưa ai biết. Tất cả chỉ là phỏng đoán của người đời sau. Có ai biết được tấm lòng Hoàng Oanh?

Nhưng ca sĩ huyền thoại ấy cũng không thể đi xa hơn. Lễ nghi gia giáo cách đây gần một thế kỷ khó lòng cho phép người phụ nữ suy nghĩ phóng túng hơn. Trong lúc đó, Văn Cao chắc hẳn cũng linh cảm ít nhiều, nhưng vẫn nhút nhát, vẫn băn khoăn về tình yêu của các bạn Đồng Vọng với Hoàng Oanh, có lẽ thêm nỗi ngại ngùng vì gia cảnh hai người quá chênh lệch. Đôi “tình nhân” vụng về trao nhau những lời thăm hỏi bâng quơ, đôi lúc thêm những câu chuyện mơ ảo lãng mạn trong không gian thơ và nhạc. Rồi nàng buồn bã ra về, không nhận được một lời hẹn ước. Mỗi người ôm ấp một tâm tư khác nhau. Có ai biết, nỗi lòng ai tỏ cùng ai?

Chỉ như thế cũng đủ để lại trong lòng Văn Cao nổi hân hoan khó tả. Hoàng Oanh về rồi, nhưng chàng nghệ sĩ tưởng chừng như bóng hồng vẫn còn lảng vảng đâu đây, cỏ cây hoa lá còn hân hoan cùng sông nước, chim chóc họp thành đàn bay về đón chào giai nhân và hát ca những lời yêu đương tình tứ để vui cùng nghệ sĩ đang đắm hồn trong vườn tình huyền ảo:

Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân

Nhưng chưa hết, khi người đẹp còn đó thì tay chân chàng nghệ sĩ trở nên vụng về; đến khi nàng đi rồi, giấc mơ tình ái mới thực sự hiện lên, tưởng chừng như người yêu vẫn còn đâu đây để hai người nắm tay nhau cùng ngất ngây trong vườn tình bên bờ suối, cùng nói với nhau những lời yêu đương ngọt ngào đến chim trời cũng ghen tuông với đôi uyên ương:

Dìu nhau theo dốc suối nơi ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm

Tưởng tượng thêm, khi đưa nàng ra bến xuân, nhìn vào đôi mắt thơ ngây của người đẹp, Văn Cao tưởng chừng sóng nước lăn tăn còn ngưng đọng trên khoé mắt Hoàng Oanh với dáng e ấp thẹn thùng như khi hai người vừa mới quen nhau thuở trước:

Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em rung theo gió nhẹ
Thẹn thùng ngoài bến xuân. 

Nhưng giấc mơ nào rồi cũng tàn. Mộng tưởng bâng khuâng rồi cũng trở về với hiện thực. Văn Cao sớm biết sau đó rằng, chuyến viếng thăm này là lần sau cùng, vì người đẹp sẽ lên xe hoa về nhà chồng, tức người bạn Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng. Dường như Văn Cao buồn tình bỏ đi ngao du một thời gian để quên sầu muộn. Trở về bến xưa với khung cảnh trống vắng, chỉ thấy đồi núi chập chùng làm khách lãng du se lòng ái ngại

Tới đây mây núi đồi chập chùng
… Gột áo phong sương
Du khách còn ngại ngùng nhìn bến xuân

Chiếc cầu vẫn còn đó, bến nước còn đây, mà “nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác”, như tâm trạng bàng hoàng của lữ khách trở về xóm cũ, không có người tình đến thăm, không còn được nắm tay để nói với nhau lời tình ái, nhưng dáng dấp Hoàng Oanh dường như chưa phai mờ trên bến nước, bên gốc cây ven bờ. Mọi thứ giờ đây đều man mác một nỗi buồn mênh mông hiu quạnh; nhìn hoa, hoa tàn úa; nhìn lá, lá cũng rơi rụng theo nỗi sầu lữ khách

Em vắng tôi một chiều
Bến nước tiêu điều
Còn hằn in nét dáng yêu
… Lệ mùa rơi lá chan hòa

Với hai điệp khúc viết theo âm giai thứ (gamme mineure) êm đềm để diễn tả nỗi lòng nhớ nhung da diết, Văn Cao chấm dứt bản nhạc tình bằng phiên khúc bốn câu thơ thuộc âm giai trưởng (gamme majeure) tươi vui, để diễn đạt tâm hồn trong sáng, dù thiết tha lưu luyến vẫn thấp thoáng bóng dáng lữ khách hướng nhìn về tương lai 

Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua

Người đời kể lại rằng, Hoàng Oanh có số phận hồng nhan đa truân, và cuộc hôn phối với Hoàng Quý chỉ kéo dài vỏn vẹn vài năm. Người chồng vĩnh viễn ra đi vì bạo bệnh để lại người thiếu phụ cô đơn, cho nên nàng đi theo đoàn văn nghệ vào chiến khu cho quên sầu muộn. Nghe đâu Hoàng Oanh còn gặp lại Văn Cao năm 1947 trong một đêm văn nghệ ở vùng rừng núi Việt Bắc. Hôm đó, theo yêu cầu của nhóm nghệ sĩ, chàng du ca Phạm Duy ôm đàn hát lại tình khúc Bến Xuân, nhưng là Bến Xuân nguyên bản tiền chiến về nỗi lòng người nghệ sĩ, chứ không phải Bến Xuân được cải biên thành Đàn Chim Việt được phổ biến trong chiến khu. Sau lần hội ngộ đó, không ai còn biết gì thêm về Hoàng Oanh, nữ ca sĩ huyền thoại của nhóm nghệ sĩ Đồng Vọng đất Hải Phòng. Không biết các sử gia âm nhạc có hứng thú phục hồi đời sống một danh ca huyền thoại đất cảng chăng? Mong lắm thay!

Sau khi sáng tác bài Bến Xuân, Văn Cao đưa cho người bạn du ca Phạm Duy xem, lúc ấy chưa phải là nhạc sĩ sáng tác, nhưng rất am hiểu âm luật và hồn thơ lai láng, nên đã góp ý để Văn Cao chỉnh sửa thành phiên bản hôm nay. Như vậy, Bến Xuân đã được hai cây đại thụ âm nhạc Văn Cao và Phạm Duy sáng tác thành một tình khúc vượt thời gian, và sớm được thánh hoá qua một giọng ca huyền thoại sống ở miền Nam, Mai Hương, nữ hoàng của tình ca tiền chiến trong thập niên 1960. Trong khi nhạc Văn Cao còn bị cấm phổ biến ở miền Bắc, thì ở miền Nam, chính Mai Hương đã đưa bài Bến Xuân lên đỉnh cao của dòng nhạc tình thuở ấy. Giờ đây cả ba nghệ sĩ lớn đã khuất núi, và nếu còn sống thì tuổi đời cả ba cũng trên dưới 100.

Xin thắp nén hương lòng tưởng niệm ba nghệ sĩ lớn của làng tân nhạc, đặc biệt tưởng niệm ngày giỗ thứ 30 của hoàng tử tình ca Văn Cao.

Cả ba nghệ sĩ lớn ấy là linh hồn của video sau đây, xin mời các bạn thưởng thức:

Hoàng Lan, cập nhật tháng 7 năm 2025

(Bài này đã đăng trên DĐKP cách đây hơn một năm, nay cập nhật bổ sung thêm vài tin tức).

./.

Bến Xuân – Văn Cao

Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân
Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú
Cành đào hoen nắng chan hoà!
Chim ca thương mến, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất trầm vương,
Dìu nhau theo dốc suối nơi ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân.

Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha lưu luyến tình vừa qua

Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác
Em vắng tôi một chiều
Bến nước tiêu điều còn hằn in nét dáng yêu
Từng đôi chim trong nắng khẽ ru u ú ù u ú
Lệ mùa rơi lá chan hòa
Chim reo thương nhớ, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất về đâu
Người đi theo mưa gió xa muôn trùng
Lần bước phiêu du về bến cũ
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng
Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xuân

./.