Tác giả: Hannah Weber và Adrian Bartocha, rbb (Rundfunk Berlin-Brandenburg)
Ghi chú: Đây là tín hiệu cảnh báo cho bậc cha mẹ ở Việt Nam khi tiếp cận với các công ty môi giới tư nhân, với hy vọng đưa con sang học nghề chính thức ở Đức. Một số trong các em có thể sẽ rơi vào tình trạng bế tắc.
***
Ngày càng có nhiều thực tập sinh (TTS) từ Việt Nam đến Đức với nhiều khó khăn về ngôn ngữ dù đã có chứng chỉ tiếng Đức. Các trường dạy nghề báo cáo về tình trạng quá tải, các nghiệp đoàn báo cáo về sự bóc lột. Một số TTS biến mất không dấu vết khỏi thị trường lao động.
Tại Trường Brillat-Savarin ở Berlin-Weißensee, một lượng đáng kể TTS người Việt không còn xuất hiện trong các lớp học nghề. Khoảng một phần ba số học sinh ban đầu đăng ký đã nghỉ học. Sebastian Riesner từ nghiệp đoàn Nahrung-Genuss-Gaststätten (NGG – Thực phẩm, Nhà hàng ăn uống), và là thành viên của hội đồng nhà trường, nói: “Không ai biết họ đã đi đâu.”
Ông Riesner cho biết, “Trường hợp tốt nhất,” là những người trẻ này “đến làm việc ở các tiệm nail nào đó, trường hợp xấu nhất là mại dâm để trả nợ.”
Trường có khoảng 5.000 TTS trong ngành khách sạn và nhà hàng, khoảng 700 người trong số họ đến từ Việt Nam. Điều đáng chú ý là: Nhiều người có chứng chỉ tiếng B1 chính thức, nhưng hầu như không thể nói tiếng Đức. Chứng chỉ này là điều kiện tiên quyết để xin thị thực học nghề.
“Hoạt động bình thường gần như bất khả thi”
Gerrit Buchhorn, Tổng giám đốc Hiệp hội Chủ lao động DEHOGA Berlin và cũng là thành viên của hội đồng nhà trường, mô tả tình hình là “rất, rất khó khăn.” TTS người Việt không thể theo kịp bài giảng, giáo viên bị quá tải, và hoạt động bình thường của trường gần như không thể duy trì. Ông Buchhorn nói: “Tôi không muốn loại trừ khả năng có điều gì đó không minh bạch ở đây.” Theo nghiệp đoàn NGG, các vấn đề tương tự cũng xảy ra trên khắp nước Đức.
Theo Cơ quan Lao động Liên bang, hiện có khoảng 16.000 thanh niên thiếu nữ từ Việt Nam đang theo học nghề tại Đức, gần 2.000 người trong số đó ở Berlin. Số liệu chính xác không có. Ví dụ, không rõ có bao nhiêu người Việt Nam có thị thực học nghề thực sự đã nộp đơn xin giấy phép cư trú, hoặc bao nhiêu người đã bỏ học và lẽ ra phải rời khỏi Đức. Điều chắc chắn là: Số lượng TTS từ Việt Nam đang tăng liên tục, chỉ riêng năm 2024 đã có khoảng 4.000 TTS từ Việt Nam đến Đức.
“Thị trường mờ ám”
Tại Việt Nam, các công ty môi giới tư nhân mời chào những người trẻ với lời hứa sẽ lo mọi thủ tục giấy tờ cho hợp đồng, thi chứng chỉ ngôn ngữ và thị thực. Theo thông tin từ cuộc điều tra của rbb24-Recherche, họ đòi đến 20.000 Euro cho dịch vụ này. Nhiều người đã mắc nợ rất nhiều. Ông Buchhorn, giám đốc DEHOGA, nói: “Người ta hứa hẹn đủ điều trên trời dưới đất.” Bản thân ông cũng thường xuyên nhận được lời mời hợp tác từ các nhà môi giới.
Chuyên gia di cư Mimi Vu nói về một “thị trường mờ ám,” nơi các nhà môi giới tư nhân là một phần của mạng lưới quốc tế tội phạm có tổ chức. Điều này bao gồm cả việc buôn bán chứng chỉ ngôn ngữ giả. Một năm trước, truyền thông Việt Nam đã đưa tin về những bất thường trong các kỳ thi tiếng Đức. Viện Goethe cũng cảnh báo về các chứng chỉ giả.
Chuyên gia Vu cho biết, các TTS mắc nợ nặng nề mà không có kỹ năng ngôn ngữ đang phải đối mặt với “nguy cơ bị bóc lột cực kỳ cao” ở Đức. Cuộc điều tra của rbb24-Recherche có trong tay các tài liệu bao gồm hợp đồng bất hợp pháp, ảnh chụp chỗ ở bẩn thỉu và lời khai của những người bị ảnh hưởng. Cơ quan Cảnh sát Hình sự Liên bang (BKA) cũng xác nhận khi được hỏi rằng họ có “một số thông tin về khả năng bóc lột TTS người Việt.” Cơ quan này không bình luận về “các thủ tục điều tra đang diễn ra.”
“Buôn người hiện đại”
Đối với ông Riesner của NGG, nhiều công ty môi giới là “các tổ chức buôn người lậu đưa lao động giá rẻ đến Đức.” Ông gọi đó là “đưa người lao động nhập cảnh trái phép và buôn người hiện đại.” Cuối cùng, nhiều TTS hoàn toàn biến mất khỏi thị trường học nghề và phải làm việc “chui trong bếp hoặc tiệm nail nào đó” để trả nợ.
Hiệp hội Chủ lao động và Nghiệp đoàn đều đồng loạt chỉ trích việc thiếu kiểm soát. Gerrit Buchhorn của DEHOGA yêu cầu một danh sách chính thức các nhà cung cấp uy tín và một hệ thống kiểm soát ràng buộc. Sebastian Riesner của NGG còn đi xa hơn: Việc môi giới nên được thực hiện độc quyền thông qua Cơ quan Lao động Liên bang, dưới các quy định pháp luật rõ ràng. Ông nói: “Nếu người dân rơi vào tình trạng việc làm bấp bênh hoặc biến mất, một nhà nước pháp quyền không thể làm ngơ.”
Nguồn:
https://www.tagesschau.de/investigativ/rbb/vietnam-auszubildende-ausbeutung-100.html

