Tác giả: TRẦN TRUNG SỸ
Sài gòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về
Người tình ơi, tôi xin giữ trọn mãi lời thề
Dù thời gian, có là một thoáng đam mê
Phố phường vạn ánh sao đêm
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên… (Nam Lộc)
Chợ xuân Nguyễn Huệ
***
Nói về Sài Gòn, nhiều người cho rằng không một khu trung tâm thành phố nào ở Đông Nam Á đẹp như Trung Tâm của Sài Gòn, khu vực ngay trước Nhà Hát Thành Phố. Tôi đã đi đến thủ đô của nhiều nước trong vùng, đúng là các khu trung tâm của họ bề thế, rộng mở, có nơi nhộn nhịp nhưng khá đơn điệu, không để lại ấn tượng, khác với Sài Gòn.
Bạn đi trên đường Tự Do xưa, nay là Đồng Khởi, từ Nhà thờ Đức Bà xuống dần về Gia Long nay là Lý Tự Trong, dưới hàng cây xanh mát rượi, sắp qua Lê Thánh Tôn là đã thấy thấp thấp ở đằng ấy bóng dáng của khu Trung tâm. Một vùng sáng rộng mở bình thản nằm giữa quần thể kiến trúc phương Tây tao nhã với đường nét đẹp xưa và nay khá đa dạng nhưng hài hòa, bổ sung cho nhau, tô điểm bởi những mảng cây xanh thấp thoáng. Luôn có đông người và xe cộ qua lại nhưng không ồn ào, không vội vã, chỉ thấy nhẹ nhàng và thanh lịch. Trông sang trọng nhưng lại ấm cúng và thân thiện.
Một người bạn tôi người nước ngoài khi đi bộ trên đường Đồng Khởi, ngang đến đây đã nói ồ một tiếng, đầy bất ngờ, khi nhin Trung tâm Thành Phố với nét quyến rũ từ nơi này. Một chút lãng mạn như thế này chỉ có ở Sài Gòn.
Người Pháp ngày xưa xây dựng Sài Gòn với mong muốn thành một nơi được xem như là Paris ở phương Đông nhiệt đới. Theo tài liệu để lại các kiến trúc sư ngày đó đã bỏ nhiều công sức và đã tự hào về những công trình xây dựng ở Sài Gòn, dù không thể so sánh với Paris về bề thế nhưng mỹ thuật thì chưa hẳn. Cho nên Sài Gòn mới có một Nhà thờ Đức Bà gạch nung đỏ độc đáo nổi bật giữa nền trời và thảm cỏ hoa, những mặt đường mênh mông ôm sát chân tường và những hàng cây cao vút, một Dinh Norodom sau này là Dinh Độc Lập dáng dấp bề thế và uy nghi khi nhìn xuyên qua những táng cây rừng có cây trên cả trăm tuổi quanh năm rợp bóng, mới có tòa nhà Đô Chính nay là Trụ sở UBND TP và một tòa Bưu Điện Sài Gòn chuẩn mực về cả nét kiến trúc kinh điển phương Tây và cả về vị trí tọa lạc, một trụ sở Ngân hàng Nhà nước trước đây là Ngân Hàng Quốc gia nhìn ra bến Chương Dương cạnh Cầu Mống, bằng đá xám, đẹp và trang trọng cả ngoài lẫn bên trong không thua kém bất kỳ một trụ ngân hàng quốc gia nào ở Châu Âu, một nhà Bảo Tàng Thành Phố mà trước đây gọi là dinh Gia Long thanh thoát, và … một Trung tâm Sài Gòn đẹp như ta có hôm nay.
Nói về khu Trung Tâm Sài Gòn như thế tôi biết có rất nhiều người không đồng tình, nhất là những người sống ở Sài Gòn trước 1975, những người từng một thời ngồi ở Givral hay Continental bên tách café nhìn qua Caravelle và Nhà Hát Thành phố trao đổi và trầm ngâm về thời cuộc, cái chỗ mà cách đây hơn 70 năm nhà văn Graham Greene tác giả The Quiet American đã từng ngồi.
Đúng là khi người ta cải tạo khu café terrace rộng mở ngồi từ cao thấp dần nhìn ra toàn cảnh khu vực Trung Tâm mang phong cách nhiệt đới độc đáo của Continental để thành một nhà hàng sang trọng bít bùng như hiện nay Trung tâm Sài Gòn như hụt hẫng và khi đập bỏ luôn cả passage Eden, nghĩa là đã khai tử Givral, nhà sách Xuân Thu và La Pagode thì Trung Tâm Sài Gòn như thiếu mất phần hồn, hết vẻ quyến rũ như xưa. Tiếc thật. Thế nhưng, xin hãy nghĩ lại coi, mấy chục năm chịu chi phối bởi bao tác nhân xa lạ với Sài Gòn, không ít người lúc nào cũng muốn và có quyền thay đổi Sài Gòn theo cách nhìn giản đơn và tư duy chạy theo những con số của họ, thì việc còn được một điểm dừng đáng yêu để cùng cảm nhận được hơi thở quen thuộc của Sài Gòn xưa như khu trung tâm hiện nay cũng là đáng mừng. Đặc biệt với những người có những kỷ niệm một thời với thành phố này.
Từ khu vực Trung Tâm Sài Gòn để nhìn rộng ra toàn thành phố, còn nhiều điều tiếc nuối cho Sài Gòn không thể nói ra hết. Nhưng với rất nhiều người từng gắn bó với nơi này, Sài Gòn, dù diện mạo và vóc dáng đã thay đổi nhiều, vẫn còn đó, như xưa, vẫn có cái bản sắc riêng của nó khác với các thành phố lớn khác trên cả nước.
Tòa Đô Chánh Saigon, trước 1975
Thật vậy, sẽ không khó khăn gì mà không thể nhận ra Sài Gòn ngay từ khi xuống Tân Sơn Nhất lên xe đi về hướng trung tâm thành phố, dù qua con đường Trường Sơn có mới lạ vì rộng mở, nhưng chỉ cần khi xe đi vòng công viên Hoàng Văn Thụ, tức Võ Tánh ngày xưa, nhìn dòng người xe đông kín chăm chú lao nhanh, cẩn thận, cẩn thận, không nói không rằng, không nhìn mặt nhau, không giành giật, không hơn thua, không khoe khoang. Rất chi là Sài Gòn.Căng thẳng đến thế sẽ làm bạn nhớ lại ngã năm, ngã bảy của Sài Gòn ngày trước.
Đi trên đường Yên Đỗ nay là Lý Chính Thắng, đổ xuống, thấy nhộn nhịp dần, bạn sẽ nhanh chóng nhận ra bên phải đằng kia là đường Trần Quang Khải, kề đó là khu vực chợ Tân Định, vùng nằm trên trục cửa ngỏ của Gia Định xưa đổ về Sài Gòn, nơi trước và tới nay vẫn tập trung đầy đủ nhất nét phong phú, kiểu dáng của đường phố Sài Gòn, mọi thứ ở đây như bị cuốn hút trong cái nhịp sinh hoạt mua bán không ngừng nghỉ của phố thị, đúng là chỉ có mua bán, đừng mong có gì khác xen vào. Ngược lên phía Pasteur rồi lên nữa, bạn sẽ bắt gặp một Quận Ba xưa còn sót lại đây đó dấu vết thế giới riêng biệt, xanh và chậm rãi giữa lòng Sài Gòn nhộn nhịp với những biệt thự thanh lịch, những táng cây liền cành, những quán cà phê tĩnh lặng và những con đường thẳng góc thoáng mát. Bạn sẽ tự mình muốn thăm lại chợ Bến Thành với bốn cửa Đông Tây Nam Bắc đầy màu sắc, sống động và lịch thiệp, và con đường Lê Thánh Tôn phía sau vẫn đàng hoàng, tự tin với ưu thế mặt hàng và phong cách bán buôn riêng biệt của nó. Và sẽ không lạ gì khu vực Kim Biên, Bình Tây và những phố xá rất ít thay đổi qua năm tháng của Chợ Lớn, nơi với những tiệm buôn nối tiếp nhau chất ngập đầy hàng hóa, một nơi có đủ chủng loại hàng cho đủ hạng người mua bất kể từ đâu đến,một nơi chỉ thấy con người một đời bận rộn chạy theo hàng hóa, như ngày xưa vốn thế.
Rồi bạn sẽ gặp những con đường với hàng cây sao, cây dầu cao vút, những con đường rợp lá me non đầu mùa mưa xanh mát mắt, những cửa hiệu liền kề bắt mắt với các bảng hiệu chữ và nghĩa chăm chút, những hàng hiên và bóng người ghé núp khi những cơn mưa chiều chợt ập xuống trắng đường, những điểm nhậu lề đường cho khách quen mỗi buổi chiều, những xe hủ tiếu mì, bò viên kiểu người Hoa cho khách ăn đêm dưới bóng cây hoặc góc đường mỗi tối, những tiệm bò lá lốt khói mịt mù thơm phức, những hàng quán tiệm ăn luôn tươm tất chào đón anh Ba, chị Sáu ghé vào tránh cái nắng buổi trưa, những ổ bánh mì thịt nguội dưa chua, những xe bò bía cho những cặp trai gái ngồi ăn bên lề đường, những ly cà phê sữa đá quen thuộc của Sài Gòn rất dễ dàng tìm thấy. Rồi bạn sẽ thấy vui vui dù đã mua hố chỉ vì những cô bán hàng ở các sạp chợ luôn nói chuyện dịu ngọt quá thật đáng yêu, thấy quen dần với những người lái taxi tiết kiệm lời nói vì lịch sự tôn trọng sự yên tỉnh và giữ khoảng cách với khách hàng, và …. những nét sinh hoạt phố thị quen thuộc của Sài Gòn, nhìn qua nghĩ là bình thường nhưng không phải thành phố nào cũng thấy có.
Thời thế có thay đổi, cảnh vật có thay đổi, nhưng Sài Gòn thì vẫn quyến rũ như ngày xưa.
Phải chăng đó chính là lý do mà hầu hết những người tôi quen, đã biết Sài Gòn và từ lâu cách xa Sài Gòn nay trở về đều muốn tự mình cảm nhận và hòa nhập với Sài Gòn như một nơi quen thuộc. Chẳng cần và chẳng muốn nhờ cậy ai hướng dẫn hay chỉ bày.
Nhớ lại những ngày tháng sau 1975 thật sự là cú sốc đối với xã hội Miền Nam đặc biệt là giới có học ở các thành thị.
Cuối năm 1979 tôi quyết định đưa gia đình vào lại Sài Gòn, lần này là dứt khoát, không còn ý nghĩ sẽ trở lại thành phố quê hương Miền Trung yêu dấu của mình. Lý do trước tiên là vì cuộc sống. Là nhà giáo nhưng không nuôi nổi gia đình, xoay xở hết cách không xong, phải đi thôi. Lý do thứ hai là do thất vọng về chữ nghĩa, tri thức, bạn bè tôi kẻ trước người sau lần lượt bỏ vào Nam, chấp nhận đổi đời, hy vọng được quên lãng trong một Sài Gòn bận rộn và thoáng đãng của Miền Nam trước đây còn sót lại.
Tôi còn nhớ trước đó, một đồng nghiệp dạy đại học ở Bắc vào tăng phái, thấy tôi ngoài giờ dạy tối lại còn phải lao động vất vả để kiếm sống, đã đồng cảm chia sẻ, rằng khi được điều vào đây nhận việc, anh ấy đã lưng đeo ba lô, đứng chen lấn đu bám ở thành sau xe khách suốt ba ngày liền nắng non gian khổ qua các tỉnh Bắc Trung Bộ mới vào đến được đây và rằng, nghỉ hè vừa qua về quê ở Ninh Bình ngày ngày anh tranh thủ đạp xe thồ đá hộc giao hàng, nhờ ba tháng hè lao động nặng như vậy mà đã kiếm được thêm chút thu nhập cho vợ, rồi khuyên tôi thôi nhé đừng mơ màng gì nữa cả. Nghe xong, tôi càng tự nhủ lần này vào Sài Gòn, bỏ hết, bỏ hết, quên mình là ai đi, mỗi ngày làm và làm, mười mấy tiếng cũng chấp nhận, bất cứ việc gì miễn sống được.
Vào Sài Gòn rồi mới thấy không phải chỉ mình tôi mới chấp nhận bỏ hết cái chữ nghĩa, quên mình đi mà quá nhiều anh em có chút học hành ở Sài Gòn, anh em các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên đổ về, những ai còn ở lại và cả những người được nhà nước mới cho được cái ân huệ gọi là lưu dung, đều có cùng ý nghĩ như tôi. Thành ra không phải đến chợ trời thuốc tây cạnh chợ Tân Định gặp bạn bè mới cảm nhận điều này mà khắp đâu đâu ở Thành phố đều nghe dân có học nói toàn chuyện kiếm tiền và kiếm sống, chữ nghĩa đâu mất hút. Sài Gòn lúc này thoắt quen dần những khuôn mặt trắng trẻo sáng sủa không ngại mưa nắng xuôi ngược chạy hàng, những chị những em trông quen quen trong sân trường đại học hoặc nổi tiếng trong giới nghệ thuật nay cả ngày ngồi sau sạp hàng vải vóc áo quần, mỹ phẩm, cả quầy thực phẩm tươi sống trong các chợ lớn chợ nhỏ hoặc bưng bê tô bún, tô phở nơi hàng quán ăn uống kê tạm lề đường, những anh em một thời cà vạt áo tay dài, kính cận nay cắm cúi trên xe đạp lỉnh kỉnh đồ nghề, gặp nhau chỉ nghe chuyện ly tâm đường, nước giải khát lên men, làm xà bông, bột giặt, fibro xi măng. . . Một số anh em có nghề còn bày được chuyện mở dạy sổ sách kế toán, tư vấn cái này cái nọ kiếm thêm chút thu nhập, người có nhà bày chuyện mở hàng quán, không ít người chỉ còn được có sức khỏe xông xáo chạy hàng lậu từ các tỉnh Long An, Tây Ninh, ngồi nhận sửa xe đạp dọc đường hoặc oằn lưng trên xe ba gác, xe cyclo có mặt khắp các nẻo đường thành phố.
Lần đầu tiên trong lịch sử, giới có ăn học vốn là thành phần được gửi gắm về mặt văn hóa và tri thức, cái phần hồn của đời sống xã hội, vốn được nể nang xem trọng, đành cởi bỏ cái vỏ bọc chữ nghĩa được coi là đã hết thời rồi, chấp nhận bị ném ra đường, bươn chải, lăn xả vào cuộc mưu sinh. Lần đầu tiên giới có ăn học sống và làm việc chan hòa với các thành phần lao động tay chân vất vả khác, không cần an ủi, khuyến cáo, động viên, không cần phong trào tung hô khẩu hiệu.
Xem ra trong cả nước chỉ ở Sài Gòn mới như vậy. Bởi lẽ trước tiên Sài Gòn là một thành phố lớn, một trung tâm kinh tế thật sự có bề dày lịch sử. Do sức sống mạnh mẽ, nên dù là trọng điểm của nỗ lực thay đổi trật tự và sinh hoạt xã hội cũ được cho là không phù hợp với chế độ mới, Sài Gòn vẫn có sức ì của nó, nếp sinh hoạt vốn có của nó khó bị uốn nắn, cải tạo.Trong khó khăn, thiếu thốnnhưng với thực lực và sự năng động, đột phá, Sài Gòn vẫn không thiếu cơ hội làm ăn kiếm sống. Và thứ hai đáng nói hơn là sự cảm thông, cởi mở, chấp nhận nhau dễ dàng không phân biệt của Sài Gòn. Tôi nhớ tục ngữ ta có câu nhất sỹ nhì nông,hết gạo chạy dông,nhất nông nhì sỹ, tục ngữ trên vừa nói lên một thực tế xã hội nhưng cũng hàm chứa một chút mỉa mai, đố kỵ ai hơn ai thua của tính chất nông dân, Sài Gòn thì không vậy. Trước sự thay đổi dữ dội của thời cuộc, buộc một tầng lớp có văn hóa phải từ bỏ cái tư thế của mình, người Sài Gòn không một chút suy nghĩ hơn thua, dèm pha, xoi bói, nghi ngờ, sẵn sàng chia sẻ cơ hội và đồng cảm với mọi hoàn cảnh.Điều này thể hiện rõ tính cách thị dân vừa là tính rộng mở vốn có của người Sài Gòn.
Chỗ này rất khác với Hà Nội sau năm 1954.Theo các anh em ở Hà Nội, sau năm 1954, cuộc sống Hà Nội xuống cấp nhanh chóng,đời sống cực kỳ khó khăn, thiếu thốn mọi thứ.Do thể chế chính trị, kinh tế tư nhân dần bị dẹp bỏ, mọi cơ hội tự bươn chải, xoay trở kiếm sống của cá nhân hầu như bị triệt tiêu, bị xã hội lúc đó coi thường, khinh rẻ. Vậy là con người Hà Nội văn hóa, trong sự đảo lộn dữ dội vị thế xã hội và cuộc sống thiếu thốn tận cùng tới mức dinh dưỡng, để tồn tại, họ đã phải thay đổi ghê gớm khiến mình khó còn giữ là mình được nữa mà nạn nhân đầu tiên là giới có học.Người Hà Nội đã không còn như trước, vàthế là phải mất không biết bao nhiêu năm mới tìm lại được phong độ của người Tràng an.
Nhớ một thời của Hà Nội để cảm ơn định mệnh lịch sử, cảm ơn Sài Gòn. Nhờ Sài Gòn cưu mang mà dù thời thế và cuộc sống qua một giai đoạn đảo lộn vàt hay đổi dữ dội, vẫn còn lưu lại đây đó ở thành phố này nét đẹp của tầng lớp học vấn và của cả những người một thời thuộc tầng lớp học vấn. Và chính nhờ đó đã giữ được một phần của tính cách Sài Gòn đến tận hôm nay.
Trở lại một giai đoạn của Sài Gòn khi hầu như phần đông người có chút học hành sẵn sàng quên đi cái vốn chữ nghĩa, quên hết, chỉ lo chuyện kiếm tiền và kiếm tiền, lăn lộn vào cuộc sống để tồn tại quả là xót xa cay đắng thật, thế nhưng xem ra cuối cùng lại có cái hay. Đúng là trong cái mất thường có cái được không ngờ. Cái may mắn đầu tiên là triệt tiêu được cái thói sĩ diện hoặc chí ít là xóa bỏ được tính ngại thay đổi, ngại lao động trực tiếp và tay chân, xa rời thực tế trong phần lớn người có học trước đó .Và thứ đến là củng cố tính độc lập, tự xoay xở tạo dựng cuộc sống, dứt bỏ hẳn cái tinh thần phụ thuộc, trông chờ nhà nước của tầng lớp trí thức vốn là thành phần thường nhiều hoặc ít gắn với bộ máy cầm quyền. Hiệu ứng này đã ảnh hưởng mạnh tới quan điểm về lập nghiệp của cả lớp có học sau này của Sài Gòn..
Thật vậy, trong những năm sau đó, không lạ gì khi thấy giới trẻ ở Sài Gòn, khác với những nơi khác, tỏ ra cách biệt và không trông đợi ở chính quyền, không mặn mà và không đeo bám khu vực nhà nước. Họ thích tự do, chẳng màng đến cái gọi là lý lịch chính trị, thích ra làm khu vực tư và mạnh dạn khởi nghiệp. Rất nhiều bạn trẻ bày chuyện làm ăn từ hình thức gia đình, cơ sở nhỏ tới mở công ty, không ngại lao động vất vả kể cả lao động tay chân như mọi người và sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
Theo nguồn từ báo chí nhà nước, trong một cuộc khảo sát gần đây với 20 ngàn sinh viên Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, cho thấy chưa đến 24 phần trăm sinh viên muốn đi làm việc ở cơ quan nhà nước và trong đó chỉ có hơn 10 phần trăm sinh viên giỏi muốn đi làm cho cơ quan nhà nước.Trong một khảo sát khác năm 2021, TP HCM chiếm 60 phần trăm lượng vốn và 70 phần trăm số thương vụ khởi nghiệp (startup) của cả nước. Tín hiệu này của tuổi trẻ Sài Gòn không phải là xu hướng tự nhiên do sự phát triển của thành phố mà là cái được từ một cái giá phải trả của một giai đoạn lịch sử đầy xót xa, chua chát mà cha, anh của họ đã từng phải trải qua và do vậy không dễ gì nơi khác trên đất nước này có được.
Rồi cái được này của Sài Gòn không trước thì sau sẽ là nguồn cảm hứng cho tuổi trẻ các nơi trong cả nước.
./.
TRẦN TRUNG SỸ, tháng4/2025 – (Còn tiếp).
(DĐKP xin phép tác giả kèm thêm những câu thơ minh họa của Nam Lộc và vài hình ảnh Saigon.
Đây là bút ký đời thực của tác giả, một trí thức tiêu biểu miền Nam, trước 1975 từng nắm giữ những vai trò cao cấp trong ngành tư pháp, rồi biến cố 1975 đã tước mất khả năng nghề nghiệp. Dù chưa phải đạp cyclo như một số bạn bè, nhưng bữa đói bữa no, bươn chải kiếm sống suốt 15 năm, rồi cuối cùng cũng có chỗ đứng xứng đáng trong nền kinh tế tư nhân. Trước khi về hưu, tác giả là giám đốc một chi nhánh ngân hàng tư nhân. Bước đi gian nan này để có kết cục tốt đẹp cũng là bài học quý cho giới trẻ hiện nay. Còn các nhà lãnh đạo? Không hy vọng gì!)
Xem lại phần 1: https://diendankhaiphong.org/sai-gon-sai-gon/


