Tác giả: Nguyễn Hữu Đổng
Chủ nghĩa xã hội là khái niệm chưa được giới nghiên cứu làm rõ về học thuật. Bằng tư duy chân thật, tác giả bài viết phân tích, làm sáng tỏ thực chất, hạn chế nhận thức, nguyên nhân hạn chế nhận thức và đề xuất giải pháp nhận thức đúng đắn khái niệm này, xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh ở Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội là gì?
Chủ nghĩa xã hội là khái niệm được đề cập nhiều vào thế kỷ XIX cùng với chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ ở phương Tây. Trong tiếng Đức, chủ nghĩa xã hội có hình thức là Sozialismus; tiếng Anh là socialism; tiếng Pháp là socialiste; tiếng Nga là cоциализм; còn trong tiếng Việt, khái niệm này bao hàm các danh từ “chủ nghĩa” và “xã hội”.
Trong Từ điển Tiếng Việt, chủ nghĩa được hiểu là “ý thức, tư tưởng” [1], tức là nói về tư tưởng cá nhân (cá thể), nhóm (tập thể), cộng đồng (xã hội); tư tưởng cá nhân gắn với sức sống trong xã hội, tư tưởng nhóm gắn với sự sống trong tự nhiên, tư tưởng cộng đồng gắn với cuộc sống trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người, dạng mô hình: nội dung chủ nghĩa nhóm – nguyên lý tư tưởng cộng đồng – hình thức chủ nghĩa cá nhân.
Điều đó có nghĩa, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện sự thiên lệch về hình thức; chủ nghĩa nhóm biểu hiện sự thiên lệch về nội dung; còn tư tưởng cộng đồng không thiên lệch về nguyên lý.Tức là, khái niệm chủ nghĩa biểu hiện “tính cách thiên lệch” (cách nhìn tiêu cực) hay “cách nhìn sự vật sai lầm” của con người [2].
Cũng trong Từ điển Tiếng Việt nêu trên, xã hội được hiểu là hình thức “tổ chức của loài người ở một trình độ nhất định của lịch sử, xây dựng trên một phương thức sản xuất nhất định”, tức là nói về cuộc sống của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong lịch sử loài người;hình thức cá nhân không là xã hội, nội dung nhóm chưa là xã hội, nguyên lý cộng đồng là xã hội, dạng mô hình: nội dung nhóm –nguyên lý xã hội –hình thức cá nhân. Theo đó, xã hội biểu hiện thực chất cuộc sống của cộng đồng loài người.
Từ các phân tích cho thấy rằng, chủ nghĩa cá nhân, cá thể là thiên lệch về hình thức; chủ nghĩa nhóm, tập thể là thiên lệch về nội dung; còn chủ nghĩa cộng đồng, xã hội là thiên lệch về nguyên lý. Theo đó, bản chất chủ nghĩa xã hội,chủ nghĩa cộng đồng là tri thức chưa khoa học; tính chất xã hội chủ nghĩa,cộng đồng chủ nghĩa là tri thức không khoa học; thực chất tư tưởng xã hội,tư tưởng cộng đồng là tri thức khoa học.
Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội là khái niệm chưa liêm chính học thuật; xã hội chủ nghĩa là khái niệm không liêm chính học thuật; còn tư tưởng xã hội là khái niệm liêm chính học thuật, dạng mô hình: bản chất chủ nghĩa xã hội – thực chất tư tưởng xã hội – tính chất xã hội chủ nghĩa.
Hạn chế nhận thức, nguyên nhân hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội trên thế giới và ở Việt Nam
Hạn chế trên thế giới
Nhận thức chủ nghĩa xã hội của giới lãnh đạo, nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới còn hạn chế. Hiện nay, khái niệm này vẫn chưa được làm sáng tỏ về thực chất nguyên lý của nó. Chẳng hạn, một số chính khách ở Mỹ Latin đã đưa ra “tương lai tốt đẹp của CNXH hiện đại của thế kỷ 21” [3]; hay một số học giả, như Blackburn, giảng viên trường New School ở New York và Robin, giảng viên đại học Essex ở Anh cho rằng “lịch sử đang đặt lên vai chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI và chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI cần tôn trọng những mục tiêu của nhân loại: bình đẳng, tự do, dân chủ, hoà bình, tiến bộ” [4]. Tức là, chủ nghĩa xã hội chỉ được giới nghiên cứu nêu ra tính chất hình thức mục tiêu chứ không nêu rõ bản chất nội dung phương pháp, thực chất nguyên lý nguyên tắc thực hiện mục tiêu xã hội, dạng mô hình: nội dung phương pháp thực hiện mục tiêu xã hội – nguyên lý nguyên tắc thực hiện mục tiêu xã hội – hình thức mục tiêu xã hội.
Hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội làm cho nhiều người không hiểu rõ mối liên hệ giữa quốc gia (nước), chế độ và dân chủ như sau: nội dung chế độ gắn với nhà nước chưa dân chủ, bởi vì nhà nước là “một nhóm người chỉ chuyên hay chủ yếu chỉ chuyên làm công việc cai trị” [5];hình thức chế độ gắn với nước nhà không dân chủ; nguyên lý chế độ gắn với quốc gia dân chủ, dạng mô hình: “bản chất nhà nước, chế độ chưa dân chủ – thực chất quốc gia, chế độ dân chủ –tính chất nước nhà, chế độ không dân chủ” [6]. Ngoài ra, hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội còn làm cho nhiều người không nhìn nhận rõ chủ nghĩa cộng đồng là chưa khoa học (chưa chân thật), chủ nghĩa cộng sản là không khoa học (giả dối), tư tưởng cộng đồng là khoa học (chân thật); hay nhìn nhận không khoa học khái niệm “lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc” [7], đồng thời nhìn nhận không khoa học khái niệm “chủ nghĩa cộng sản” – “giai đoạn cao so với chủ nghĩa xã hội” [8].
Hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội được nhìn nhận là nguyên nhân dẫn đến các loại hình tư tưởng phản tiến bộ, như: bá quyền, độc tài, độc quyền, cực đoan, phân biệt giai cấp, giàu nghèo, “kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa” [9]; dẫn đến sùng bái “lãnh tụ bất tử” [10];“sùng bái tăng trưởng” về kinh tế [11]; hay dẫn đến sự so sánh thiếu cơ sở khoa học giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, chẳng hạn như một kết quả điều tra dư luận ở Mỹ đã kết luận rằng: “chủ nghĩa xã hội đang nhận được đánh giá tích cực hơn chủ nghĩa tư bản trong nhóm người Mỹ có độ tuổi từ 18-19” [12].
Hạn chế ở Việt Nam
Nhận thức chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều hạn chế; bởi vì, ngay cả các khái niệm có liên quan đến nó, như “chủ nghĩa”, “cá nhân”, “cộng đồng”, “xã hội” đều chưa được giới nghiên cứu làm rõ về học thuật. Chẳng hạn, trong Từ điển Tiếng Việt như đã nêu ở trên, cá nhân chỉ được nhìn nhận mặt tính chất, bản chất người “riêng lẻ, phân biệt với tập thể hoặc xã hội” chứ không nhìn nhận rõ mặt thực chất cá thể người trong đời sống cộng đồng, xã hội; cộng đồngchỉ được nhìn nhận chung chung là toàn thể “những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội”, chứ không nhìn nhận cụ thể là cuộc sống phát triển của xã hội loài người.
Hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội làm cho đội ngũ cán bộ (đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, kiểm sát viên) nói chung, giới lãnh đạo, nghiên cứu nói riêng không hiểu rõ mối liên hệ giữa tính chất hình thức, bản chất nội dung, thực chất nguyên lý của khái niệm này như sau: nội dung chủ nghĩa xã hội gắn với xã hội chưa phát triển, hình thức xã hội chủ nghĩa hay “tính chất của chủ nghĩa xã hội” [13] gắn với xã hội không phát triển, nguyên lý tư tưởng xã hội gắn với xã hội phát triển.
Hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội dẫn đến tư duy giáo điều khi một số người nghiên cứu đưa ra các khái niệm thiếu liêm chính học thuật, như: “chủ nghĩa cộng đồng Việt Nam” [14], “chủ nghĩa nhân văn cộng sản” [15]; khi giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản xác định mục tiêu thiên lệch về hình thức xã hội, như: “phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [16], hay Quốc hội đặt tên nước không liêm chính học thuật là: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [17]. Ngoài ra, hạn chế nêu trên còn dẫn đến quan điểm không đúng đắn, như Hiến pháp năm 2013 xác định không khoa học về nền kinh tế của quốc gia: “kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [18]; hay trong lời nói đầu của Hiến pháp này đã xác định sai lầm về con đường phát triển của Việt Nam, khi Đảng Cộng sản thực hiện vai trò lãnh đạo “đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Nguyên nhân hạn chế
Bằng tư duy chân thật, tác giả bài viết cho rằng, hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội là do giới nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã chưa hiểu rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa hình thức hiện tượng sức sống không phát triển, nội dung sự vật sự sống chưa phát triển, nguyên lý hiện thực cuộc sống phát triển, dạng mô hình thuật ngữ “khái niệm”, “phát triển” như sau: bản chất sự vật sự sống chưa phát triển – thực chất hiện thực cuộc sống phát triển – tính chất hiện tượng sức sống không phát triển. Nói cách khác, hạn chế nhận thức chủ nghĩa xã hội là do những người nghiên cứu đã không hiểu rõ thực chất thuật ngữ, khái niệm nói chung, mô hình phát triển nói riêng.
Giải pháp nào nhận thức đúng đắn chủ nghĩa xã hội, xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh ở Việt Nam?
Thứ nhất, tư duy sáng tạo mô hình xã hội. Mô hình xã hội bao hàm các mặt chủ yếu như sau: thuật ngữ “mô” và “xã” biểu hiện sự sống của nhóm, xã hội chưa phát triển; thuật ngữ “hình” và “hội” biểu hiện sức sống của cá nhân, xã hội không phát triển; còn mô hình xã hội biểu hiện cuộc sống của cộng đồng, xã hội phát triển, dạng cấu trúc: bản chất xã hội chưa phát triển –thực chất xã hội phát triển – tính chất xã hội không phát triển. Điều đó có nghĩa, tư duy sáng tạo mô hình xã hội là nhận thức đúng đắn “chủ nghĩa xã hội” – khái niệm biểu hiện thực chất xã hội phát triển; đồng thời nhận thức đúng đắn “chủ nghĩa cộng sản” – khái niệm biểu hiện thực chất “tư tưởng cộng đồng”. Nói cách khác, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” là chưa đúng đắn về học thuật; còn “chủ nghĩa cộng sản” là sai lầm về học thuật, tức không liêm chính học thuật, bởi vì thuật ngữ “cộng sản” chỉ nói về một “cộng đồng tưởng tượng” (cộng đồng không có thật) [19].
Thứ hai, tư duy sáng tạo mô hình cộng đồng dân chủ. Cộng đồng dân chủ bao hàm các mặt chủ yếu như sau: thuật ngữ “cộng” và “dân” biểu hiện nhóm chưa dân chủ; thuật ngữ “đồng” và “chủ” biểu hiện cá nhân không dân chủ; còn cộng đồng dân chủ biểu hiện xã hội dân chủ, dạng cấu trúc: bản chất nhóm chưa dân chủ – thực chất xã hội dân chủ – tính chất cá nhân không dân chủ. Điều đó có nghĩa, tư duy sáng tạo mô hình cộng đồng dân chủ là xây dựng được xã hội dân chủ.
Thứ ba, tư duy sáng tạo mô hình cộng đồng phát triển. Cộng đồng phát triển bao hàm các mặt chủ yếu như sau: thuật ngữ “cộng” và “phát” biểu hiện nhóm chưa phát triển văn minh; thuật ngữ “đồng” và “triển” biểu hiện cá nhân không phát triển văn minh; còn cộng đồng phát triển biểu hiện xã hội phát triển văn minh, dạng cấu trúc: bản chất nhóm chưa phát triển văn minh – thực chất xã hội phát triển văn minh – tính chất cá nhân không phát triển văn minh. Điều đó có nghĩa, tư duy sáng tạo mô hình cộng đồng dân chủ, phát triển là xây dựng được xã hội dân chủ phát triển văn minh.
Kết luận
Xã hội loài người gắn liền với tư tưởng cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia như sau: tư tưởng nhóm biểu hiện khuynh hướng thiên lệch về nội dung bên trong, tư tưởng cá nhân biểu hiện khuynh hướng thiên lệch về hình thức bên ngoài, còn tư tưởng cộng đồng biểu hiện không thiên lệch về nguyên lý tồn tại ở giữa.
Xã hội không thể phát triển văn minh hay không thể bảo đảm công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của con người khi giới lãnh đạo, nghiên cứu trong quốc gia không hiểu biết rõ tính chất hình thức, bản chất nội dung, thực chất nguyên lý của khái niệm nói chung, tư tưởng, chủ nghĩa nói riêng. Do vậy, nhận thức đúng đắn khái niệm chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cơ sở khoa học bảo đảm cho đất nước phát triển.
Để nhận thức đúng đắn chủ nghĩa xã hội, xây dựng xã hội dân chủ phát triển văn minh, trước hết, giới lãnh đạo, nghiên cứu cần phải khiêm tốn, vứt bỏ tư tưởng thiên lệch hay tư tưởng hữu khuynh, tả khuynh; đồng thời, tư duy sáng tạo mô hình xã hội, cộng đồng dân chủ và phát triển trong làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
./.
Xem thêm những bài biên khảo của Nguyễn Hữu Đổng
…………………
Tài liệu trích dẫn:
[1], [8], [13] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 2005, tr. 174.
[2] https://diendankhaiphong.org/de-giai-tru-kho-nao/.
[3] https://nhandan.vn/tu-cach-mang-bolivar-den-cnxh-the-ky-21-post169954.html.
[5] https://www.marxists.org/vietnamese/lenin/1919/jul/11.htm.
[6] https://liendoanluatsu.org.vn/ban-them-ve-khai-niem-nha-nuoc-phap-quyen/.
[9] V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va: 1978, t. 44, tr. 217.
[10] https://tuoitre.vn/trieu-tien-dat-nuoc-la-ky-ky-2-lanh-tu-bat-tu-1191439.htm.
[11] https://qln.mof.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/ky-1-su-sung-bai-tang-truong.htm.
[12] https://www.vietnamplus.vn/gioi-tre-my-dang-co-cai-nhin-tich-cuc-ve-chu-nghia-xa-hoi/519170.vnp.
[17] Điều 2, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
[18] Mục 1, Điều 51, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
[19] https://danviet.vn/sach-kho-doc-o-viet-nam-va-cac-nha-lanh-dao-20210410081211204.htm.

