Tác giả: Nguyễn Hữu Đổng
Quyền con người chưa được giới học thuật làm rõ. Bằng văn hoá, tác giả làm sáng tỏ sự thật, hạn chế hiểu biết khái niệm này; đồng thời, đề xuất cách nhận thức đúng văn hoá quyền con người, xây dựng văn hoá phát triển quyền con người.
Human rights have not been clarified by academia. By culture, the author clarifies truth, limited understanding of this concept; at the same time, proposing ways to correctly perceive human rights culture, building a culture of human rights development.
Thực chất giải mã quyền con người bằng văn hoá
Văn hoá là “ý thức sống chân thật” của con người [1]. Theo đó, giải mã quyền con người bằng văn hoá gồm các mặt sau: cá nhân thiếu trung thực thiếu quyền con người; nhóm người chưa trung thực chưa có quyền con người; cộng đồng người trung thực (chân thật) có quyền con người. Điều đó có nghĩa, quyền con người là văn hoá cộng đồng; cộng đồng không văn hoá không có quyền con người. Nói cách khác, quyền con người biểu hiện văn hoá của loài người; loài người không văn hoá không có quyền con người; thiếu quyền con người loài người trở nên dã man (without human rights, humanity becomes barbaric); có quyền con người là có loài người văn hoá; tức loài người có văn hoá quyền con người hay “văn hoá nhân quyền” – khái niệm biểu hiện thực chất con người có quyền hạnh phúc chân thực trong quốc gia, xã hội loài người.
Gắn quyền con người với cuộc sống hoà bình cho thấy rằng, sức sống cá nhân không tự do không có quyền con người, cá nhân không chân thật không có hoà bình; sự sống nhóm chưa độc lập chưa có quyền con người, nhóm chưa chân thật chưa có hoà bình; cuộc sống cộng đồng hạnh phúc là có quyền con người, cộng đồng chân thật có hoà bình. Tức quyền con người là cộng đồng người có hoà bình hạnh phúc; cộng đồng người không hạnh phúc là thiếu quyền con người. Gắn quyền con người với con đường hoà bình cho thấy thêm rằng, không có con đường hoà bình không có quyền con người, chưa có con đường hoà bình chưa có quyền con người, có con đường hoà bình là có quyền con người. Điều đó có nghĩa, quyền con người là có cuộc sống hoà bình, hay có “con đường hoà bình” – khái niệm biểu hiện thực chất con đường độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự trong quốc gia, xã hội loài người. Nói cách khác, quyền con người là cộng đồng có con đường hoà bình, con đường hạnh phúc; tức là, có quyền con người nước có độc lập, hoà bình thật sự, nhân dân có cuộc sống tự do hạnh phúc thật sự.
Gắn quyền con người với công dân cho thấy rằng, không có quyền con người thiếu quyền công dân; chưa có quyền con người chưa có quyền công dân; có quyền con người là có quyền công dân. Tức quyền công dân là quyền con người; quyền con người là quyền công dân, hay con người có quyền được sinh ra bình đẳng bất kể là nam hay nữ. Theo đó, thiếu quyền công dân là thiếu quyền con người; công dân thiếu quyền tự do thiếu quyền con người (citizens lack freedom rights and lack human rights). Chẳng hạn, người thiếu quyền tự do tư tưởng thiếu quyền con người, bởi có tự do tư tưởng con người phát triển; con người thiếu quyền chính trị thiếu quyền con người (people lack political rights and lack human rights), bởi có quyền chính trị mới tự do hạnh phúc. Nói cách khác, thiếu quyền con người là thiếu “quyền chính trị” – khái niệm biểu hiện quyền xây dựng, thực hiện, “thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển quốc gia” của con người trong cộng đồng [2].
Gắn quyền con người với lịch sử văn hoá và xã hội văn minh cho thấy rằng, không có quyền con người không có lịch sử văn hoá, không có xã hội văn minh; chưa có quyền con người chưa có lịch sử văn hoá, chưa có xã hội văn minh; có quyền con người là có lịch sử văn hoá, có xã hội văn minh. Điều đó có nghĩa, quyền con người là “lịch sử văn hoá” – khái niệm biểu hiện thực chất lịch sử chân thật của dân tộc quốc gia trong xã hội loài người.Theo đó, hiểu lịch sử văn hoá là hiểu cuộc sống, nguồn gốc loài người và nguồn gốc quyền con người; đồng thời, có quyền con người là có xã hội văn minh.Nói cách khác, quyền con người là quyền văn minh của mỗi người dân trong cộng đồng; người thiếu quyền văn minh thiếu xã hội văn minh, loài người thiếu hiểu biết nguồn gốc của mình.
Gắn quyền con người với chính trị và kinh tế phát triển cho thấy rằng, không có quyền con người không chính trị phát triển, không có kinh tế phát triển; chưa có quyền con người chưa chính trị phát triển, chưa có kinh tế phát triển; còn có quyền con người là chính trị phát triển, có kinh tế phát triển. Điều đó có nghĩa, quyền con người là “chính trị phát triển” – khái niệm biểu thị chính quyền xây dựng, thực hiện, “thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển” [3]; đồng thời, có quyền con người “kinh tế phát triển” – khái niệm biểu hiện bảo đảm sự hài hoà về môi trường sống, sự công bằng, bình đẳng, công lý về sản xuất kinh doanh dịch vụ của các công ty tư nhân, cổ phần, công ích trong quốc gia. Gắn quyền con người với con đường chính trị cũng cho thấy rằng, con đường chính trị sai không có quyền con người; con đường chính trị chưa đúng thiếu quyền con người; con đường chính trị đúng có quyền con người (the correct political path has human rights). Nói cách khác, con đường chính trị đúng đắn phát triển là có quyền con người; con đường chính trị không phát triển không có quyền con người; quyền con người là quyền công dân, “quyền phát triển”, “quyền dân sự chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa” [4], thiếu quyền con người là thiếu các quyền này. Theo đó, quyền con người chính là quyền phát triển, hay quyền “con người phát triển” – khái niệm biểu hiện con người được bảo đảm sự hài hoà về môi trường sống, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia. Tức quyền con người là quyền phát triển của mỗi người dân trong cộng đồng; con người không phát triển nếu thiếu quyền phát triển.
Gắn quyền con người với đảng phát triển cho thấy rằng, đảng hữu khuynh (thiên hữu) chưa có quyền con người, đảng chưa phát triển; đảng tả khuynh (thiên tả) không có quyền con người, đảng không phát triển; đảng không khuynh tả hữu có quyền con người, đảng phát triển. Điều đó có nghĩa, quyền con người không gắn với đảng phái, mà gắn với “đảng phát triển” – đảng bảo đảm công bằng bình đẳng công lý giá trị sống của con người.Gắn quyền con người với đảng chính trị lãnh đạo cũng thấy rằng, đảng không chính trị lãnh đạo không có quyền con người; đảng chưa chính trị lãnh đạo chưa có quyền con người; đảng chính trị lãnh đạo có quyền con người (leading political party has human rights). Tức là, quyền con người thì đảng chính trị lãnh đạo hay đảng lãnh đạo chính trị; đồng thời, quyền con người cần có đảng phát triển, thiếu các đảng như vậy không có quyền con người.
Gắn quyền con người với chính quyền cho thấy rằng, thiếu quyền con người thiếu chính quyền của dân, chưa quyền con người chưa chính quyền của dân, quyền con người chính quyền của dân, hay chính quyền của quốc dân đồng bào. Tức là, quyền con người gắn với chính quyền của dân, chứ không phải “chính quyền nhà nước” như Giáo trình ngành Xây dựng Đảng biên soạn [5].
Gắn quyền con người với an ninh con người cho thấy rằng, chưa bảo vệ nhóm người chưa có quyền con người, chưa có an ninh con người; không bảo vệ cá nhân không có quyền con người, không có an ninh con người;bảo vệ cộng đồng người là có quyền con người, có an ninh con người. Điều đó có nghĩa, quyền con người gắn liền với bảo vệ con người hay an ninh con người; con người không được bảo vệ trước cái ác là thiếu quyền con người. Tức là, để bảo đảm quyền con người cần phải bảo vệ con người, chứ không phải “bảo đảm an ninh chính trị nội bộ” như một số người nghiên cứu nêu ra [6]; chẳng hạn, như bảo đảm quyền dân sự, kinh tế, văn hoá, hay bảo đảm môi trường sống của các cá nhân, nhóm cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người.
Gắn quyền con người với pháp luật (phép luật) cho thấy rằng, luật không chân thật không phát triển, cá nhân không văn hoá không có quyền con người; pháp chưa chân thật thiếu phát triển, nhóm thiếu văn hoá thiếu quyền con người; pháp luật chân thật phát triển, cộng đồng văn hoá có quyền con người. Tức pháp luật là của cộng đồng các dân tộc hay của nhân dân; pháp luật của nhân dân là có quyền con người (people’s laws are human rights), còn “pháp luật trong Nhà nước” là không có quyền [7]. Nói cách khác, quyền con người cần có pháp luật của nhân dân, cần có pháp luật của “quốc gia pháp quyền” (there is a need of the laws of a “rule of law country”) [8], mà không phải của “nhà nước pháp quyền” (but not of “the rule of law”) [9]; cần có pháp luật văn hoá hay “văn hoá luật” (luật văn hoá); cần hình thành “luật phát triển” – luật bảo đảm hài hoà môi trường sống, công bằng bình đẳng công lý giá trị sống của con người; không có pháp luật của nhân dân, không luật văn hoá, hay thiếu luật phát triển là thiếu quyền con người (or lack of development laws means lack of human rights).
Hạn chế hiểu biết quyền con người trên thế giới và ở Việt Nam
1. Hạn chế trên thế giới
Quyền con người là quyền của mỗi người dân trong cộng đồng. Tuy nhiên, hiểu biết khái niệm này còn hạn chế. Hiện nay, giới nghiên cứu chưa làm rõ từ “quyền” và thực chất “con người”. Chẳng hạn, khi phân tích quyền, người nghiên cứu chỉ nhìn mặt tính chất bản chất, chứ không nhìn nhận thực chất quyền; khi phân tích con người, người nghiên cứu chỉ nhìn hình thức không phải con người, bản chất chưa phải con người, chứ không nhìn thực chất con người (rather than looking at human nature).
Hạn chế hiểu biết quyền con người làm cho nhiều người không nhận thức rõ quan hệ giữa các mặt sau: giữa quyền con người và lịch sử văn hoá; giữa quyền con người và chính trị, kinh tế, pháp luật, phát triển; hay giữatính chất không có văn hoá quyền con người, bản chất thiếu văn hoá quyền con người, thực chất có văn hoá quyền con người; nhiều người tin mù quáng “thuyết tiến hoá” [10], không hiểu “quyền con người phát triển” – cơ sở hình thành nguồn gốc loài người. Hạn chế hiểu biết quyền con người dẫn đến nhiều hệ luỵ trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, như: dẫn đến “sùng bái tăng trưởng” [11], không coi trọng phát triển bảo vệ quyền con người; dẫn đến “sùng bái quyền lực” khi không hiểu rõ quyền lực là cuộc sống hạnh phúc chân thật của con người [12]; hay dẫn đến xung đột, nội chiến, chiến tranh, chạy đua vũ trang huỷ diệt quyền con người qua hàng nghìn năm lịch sử ở cả châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ từ quá khứ đến hiện tại.
2. Hạn chế ở Việt Nam
Hiểu biết quyền con người của nhiều người còn hạn chế. Hiện nay, ngay cả giới nghiên cứu cũng chưa nhìn rõ thực chất sự thật quyền và con người. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), quyền chỉ được nêu ra chung chung là “pháp luật hoặc xã hội cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” chứ không nêu rõ là quyền được công bằng bình đẳng công lý của con người; con người chỉ được nêu ra chung chung là “Người, về mặt những đặc trưng bản chất nào đó” chứ không nêu rõ là người có các quyền chính đáng của mình trong cộng đồng.
Hạn chế hiểu biết quyền con người làm giới nghiên cứu không hiểu rằng, thiếu quyền con người con người thiếu quyền tự do, chưa quyền con người con người chưa có quyền sống, có quyền con người con người có quyền sống, tự do, được hạnh phúc; nhiều người nghiên cứu không hiểu rằng, thiếu quyền con người là con người thiếu văn hoá, chưa có quyền con người con người chưa văn hoá, có quyền con người là con người có văn hoá; nhiều người không hiểu rằng, quyền con người không có “đấu tranh giai cấp” [13], mà có đấu tranh nhằm phát triển giới; nhiều người cũng không hiểu rõ rằng, quyền con người gắn với quyền lực của nhân dân trong ““nước pháp quyền” (rule of law country)”, hay trong ““quốc gia pháp quyền” (nước pháp quyền) – khái niệm biểu hiện thực chất quốc hội, chính phủ, toà án trong chính quyền nhân dân xác định nguyên tắc xây dựng, thực hiện pháp luật kiến tạo phát triển bền vững quốc gia” [14]. Thậm chí, hiện nay nhiều người chưa hiểu rõ rằng, quyền con người là lẽ tự nhiên của giống người;nhiều người cũng chưa hiểu rõ rằng, quyền con người không gắn với bạo lực, chiến tranh, mà gắn với hoà bình và phát triển, tình yêu giữa con người trong cộng đồng quốc gia.
Hạn chế hiểu biết quyền con người là nguyên nhân dẫn đến nhiều bất cập trong xã hội; chẳng hạn, như: “hệ thống pháp luật còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn, chưa theo kịp thực tiễn, dẫn đến khó khăn, thậm chí hiểu sai đã tác động đến việc bảo đảm tính hợp hiến, tính khả thi và minh bạch trong quá trình bảo đảm quyền con người” [15]; “tham nhũng quyền lực” [16]; “quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ” [17]; “Trong những năm gần đây, thực trạng vi phạm quyền của người lao động có xu hướng gia tăng, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động chưa được bảo đảm, tính nghiêm minh của pháp luật chưa được tôn trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư” [18]; “thực tế đã có những trường hợp bắt giam người rất tùy tiện. Đó là vụ việc “con bị xâm hại, mẹ thành bị can” của mẹ con cô giáo Bùi Thị Đ (giáo viên ở Tp Sơn La, tỉnh Sơn La) xảy ra vào năm 2010. Đây có thể xem là một vết chàm đối với công tác tiến hành tố tụng” [19]; hay “mức độ bạo lực ngày càng gia tăng” [20]; v.v..
Đề xuất cách nhận thức đúng văn hoá quyền con người, xây dựng văn hoá phát triển quyền con người
Thứ nhất, cách nhận thức đúng văn hoá quyền con người.
Văn hoá quyền con người gồm các mặt chủ yếu sau: hình thức thật sự không văn hoá quyền con người, không có quyền tự do (không đúng, sai); bản chất sự thật chưa văn hoá quyền con người, chưa có quyền sống (chưa đúng); thực chất sự thật văn hoá quyền con người, có quyền hạnh phúc (đúng), dạng mô hình: bản chất sự thật chưa văn hoá quyền con người – thực chất thật văn hoá quyền con người – hình thức thật sự không văn hoá quyền con người. Tức là, để có cách nhận thức đúng văn hoá quyền con người đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu rõ mặt bản chất chưa có quyền sống (chưa lẽ phải); hình thức không có quyền tự do (không phải, trái); thực chất có quyền hạnh phúc (lẽ phải), dạng mô hình: bản chất chưa có quyền sống – thực chất có quyền hạnh phúc – hình thức không có quyền tự do.Nói cách khác, giới lãnh đạo nghiên cứu cần biết phân biệt rõ phải trái trong nhận thức văn hoá quyền con người.
Thứ hai, xây dựng văn hoá phát triển quyền con người.
Văn hoá phát triển quyền con người gồm các mặt tính chất quyền con người không chân thật, xây dựng quyền con người không văn hoá phát triển; bản chất quyền con người thiếu chân thật, xây dựng quyền con người chưa văn hoá phát triển; thực chất quyền con người chân thật, xây dựng quyền con người văn hoá phát triển, dạng mô hình: bản chất quyền con người chưa văn hoá phát triển – thực chất là quyền con người văn hoá phát triển – hình thức quyền con người không văn hoá phát triển. Tức để xây dựng văn hoá phát triển quyền con người đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu các mặt bản chất chưa văn hoá phát triển quyền con người (chưa thật, chưa đúng),tính chất không văn hoá phát triển quyền con người (không thật, sai), thực chất văn hoá phát triển quyền con người (sự thật, đúng), dạng mô hình:bản chất chưa văn hoá phát triển quyền con người – thực chất văn hoá phát triển quyền con người – tính chất không văn hoá phát triển quyền con người.Nói cách khác, giới lãnh đạo nghiên cứu cần phải chân thật, biết phân biệt rõ đúng sai, sự thật trong xây dựng văn hoá phát triển quyền con người.
Quyền con người biểu hiện quyền phát triển hay quyền có văn hoá của con người trong quốc gia, xã hội loài người; đồng thời, biểu hiện xã hội loài người văn minh. Hiện nay, khái niệm này chưa được giới khoa học làm rõ sự thật các mặt quyền con người không văn hoá, quyền con người chưa văn hoá,quyền con người văn hoá hay văn hoá quyền con người. Đây được nhìn nhận là nguyên nhân dẫn đến quốc gia còn bất cập trong việc bảo đảm quyền con người. Do đó, để bảo đảm các quyền của người dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững con người văn hoá, giới nghiên cứu khoa học cần hiểu rõ sự thật quyền con người trong xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật, đồng thời có cách nhận thức đúng văn hoá quyền con người, xây dựng văn hoá phát triển quyền con người.
……………………
Tài liệu trích dẫn:
[1] https://diendankhaiphong.org/ban-ve-khai-niem-van-hoa-tam-linh/
[2], [3] https://diendankhaiphong.org/2023/10/24/luat-khoa-hoc-chinh-tri-phat-trien/
[4] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Tuyen-bo-ve-quyen-phat-trien-1986-275833.aspx
[5] https://vya.edu.vn/nganh-xay-dung-dang-va-chinh-quyen-nha-nuoc-taii-vya
[6] https://nhandan.vn/xay-dung-luc-luong-an-ninh-chinh-tri-noi-bo-vung-manh-tuyet-doi-trung-thanh-voi-dang-nha-nuoc-va-nhan-dan-post761826.html
[7] https://phaply.net.vn/hoan-thien-co-che-to-chuc-thuc-hien-phap-luat-trong-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-a257479.html
[8], [14] https://lsvn.vn/ban-them-ve-khai-niem-nha-nuoc-phap-quyen1662130587.html
[9] https://baophapluat.vn/nha-nuoc-phap-quyen-coi-nguon-va-hien-thuc-sinh-dong-post503245.html
[11] https://qln.mof.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/ky-1-su-sung-bai-tang-truong.htm
[12] https://nghiencuuquocte.org/2021/09/28/nguoi-trung-quoc-sung-bai-va-thach-thuc-quyen-luc/
[13] http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/can-nhan-ro-cuoc-dau-tranh-giai-cap-hien-nay/3411.html.
[17] https://hdll.vn/vi/nghien-cuu—trao-doi/dan-chu-va-thuc-trang-thuc-hien-dan-chu-nhung-nam-qua.html.
[18] https://hcmussh.edu.vn/news/item/11235
[19] https://tapchitoaan.vn/ban-ve-quyen-con-nguoi-trong-to-tung-hinh-su9786.html.
[20] https://baomoi.com/ky-cuoi-vi-sao-muc-do-bao-luc-ngay-cang-gia-tang-c49264437.epi.
………………….
Nguyễn Hữu Đổng, Ngày 17/06/2024

