Trang chủ » HAI GƯƠNG MẶT CỦA HỌC THUYẾT TÂN TỰ DO

HAI GƯƠNG MẶT CỦA HỌC THUYẾT TÂN TỰ DO

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Tác giả: JEREMY ADELMAN, Project Syndicate
Biên dịch: Tôn Thất Thông

Những người khởi xướng học thuyết tân tự do là những nhà tư tưởng mới, những người theo đuổi học thuật đồng thời tìm cách áp dụng các khái niệm của họ vào thế giới thực. Tất cả đều phải vật lộn với một câu hỏi đã thống trị phần lớn thế kỷ 20: Liệu [kinh tế] tự do có dẫn đến thịnh vượng hay đó là con đường quanh co?

CAMBRIDGE – Milton Friedman không hề nghi ngờ bản thân. Quyết tâm của ông đối với việc lý giải những ưu điểm của thị trường không rào cản đã khiến ông trở thành bậc thầy về chính sách bãi bỏ quy định, tư nhân hóa và thương mại tự do. Theo quan điểm của ông, chủ nghĩa tư bản tự do là nền tảng của tự do công dân và tự do chính trị, trong khi những xã hội cấm các hoạt động theo quy luật cung cầu bị kết án là đánh mất tự do. Những niềm tin này đã củng cố cho quá trình siêu toàn cầu hóa vốn đã chiếm ưu thế suốt nửa thế kỷ kể từ những năm 1970, và Friedman chính là hiện thân của quá trình đó.

Tuy nhiên, vào cuối đời, Friedman thỉnh thoảng bày tỏ sự nghi ngờ. Vào khoảng thời gian Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001, ông đã lo lắng rằng câu thần chú của mình “tư nhân hóa, tư nhân hóa, tư nhân hóa!” là một sai lầm. “Tôi đã sai. Thế vẫn chưa đủ,” ông nói với khán giả gồm những người bảo thủ đang nghe và tỏ ra bối rối. Suy cho cùng, Hồng Kông và Singapore, dù là những nước nhỏ cũng từng được coi là những động cơ mạnh mẽ của toàn cầu hóa, đã trở thành ví dụ về các mô hình định hướng thị trường mang lại ít tự do: Tài sản là thiêng liêng, nhưng bầu cử thì không.

Friedman, người giảng đạo cấp cao của học thuyết tân tự do, cuối cùng đã chứng kiến di sản của mình nhường chỗ cho chính sách theo chủ nghĩa tiền tệ, nợ công tăng vọt và gần đây là sự trở lại của nhà nước điều khiển. Để kể câu chuyện về cuộc đời ông và ảnh hưởng mà ông mang lại cho thế giới hiện đại – như nhà sử học Jennifer Burns của Stanford đã làm trong cuốn tiểu sử mới tuyệt diệu, Milton Friedman: Người bảo thủ cuối cùng – là để theo dõi quá trình thay đổi thái độ của chúng ta một cách rộng rãi hơn đối với thị trường và tính hiện đại.

HỌC THUYẾT TÂN TỰ DO RỜI RẠC

Có hai cách để kể câu chuyện về học thuyết tân tự do sau chiến thắng của nó. Đầu tiên là câu chuyện quen thuộc về sự ngạo mạn và thái quá. Những người theo học thuyết tân tự do là những người cuồng nhiệt đã đưa ý tưởng của mình đi quá xa. Quyết tâm loại bỏ những người theo chủ nghĩa Keynes khỏi quyền kiểm soát việc hoạch định chính sách và cả sách giáo khoa, họ đã lãnh đạo một chiến dịch thành công để diễn giải ý tưởng có tính cách biến đổi hệ hình của họ trong các trường đại học và viện nghiên cứu. Tuy nhiên, cuối cùng, thực tế về sự bất bình đẳng, vùng đất hoang công nghiệp và trận chiến Armageddon [1] về môi trường trước hết đã bắt kịp và sau đó nhấn chìm lý tưởng của họ.

Giờ đây, ngay cả đảng Cộng hòa – đảng đã trở thành đảng chính trị đầu tiên ủng hộ niềm tin tân tự do khi Barry Goldwater đề cao nó trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964 của ông (khi Friedman lần đầu tiên được tiếp xúc với cơ quan hành pháp) – đảng này cũng đang đốt lá cờ mà họ từng vẫy. Nhiệm vụ duy nhất còn lại là tìm hiểu những tàn tích của học thuyết tân tự do trong nỗ lực điều tra pháp lý nhằm giải thích điều gì đã xảy ra.

Cách kể chuyện thứ hai bắt đầu bằng việc chú ý nhiều hơn đến cách các ý tưởng kinh tế được tạo ra và cách những người tiền phong của chúng xử lý những thực tế thiếu trật tự. Cả cuốn sách của Burns lẫn cuốn sách Hayek: A Life, 1899-1950 của BruceCaldwell & Hansjoerg Klausinger – tập đầu tiên chắc chắn là tiểu sử của Friedrich von Hayek – là những kiệt tác dưới góc độ này, đưa ra cách thức tái dựng lại lịch sử trí tuệ của học thuyết tân tự do.

Hình ảnh của Friedman và Hayek nổi lên như là một trong những người đưa ra ý tưởng tham gia vào các hoạt động theo đuổi học thuật trong khi tìm cách biến các khái niệm của họ thành công cụ – có thể thông qua các nhà tài trợ doanh nghiệp hoặc bằng cách gắn kết bản thân và công việc của họ với các phong trào chính trị. Cả hai đều vật lộn với câu hỏi xuyên suốt toàn bộ lịch sử của học thuyết tân tự do: Liệu kinh tế tự do có dẫn đến thịnh vượng hay đó là con đường quanh co?

Trong thời kỳ hoàng kim của toàn cầu hóa, câu trả lời có vẻ như đã được giải quyết. Trung Quốc được chào đón gia nhập WTO với giả định rằng thương mại và sự thịnh vượng sẽ kéo nước này tiến tới dân chủ hóa. Hai mươi năm sau, niềm tin đó xem ra có vẻ kỳ quặc. Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và thắng lợi rõ ràng của nền dân chủ tự do đã tạo ra ảo tưởng về một giải pháp cuối cùng. Ngoảnh nhìn lại, sự không chắc chắn, lập lờ và những thỏa hiệp về mặt đạo đức mà các nhà lãnh đạo phương Tây trước đây đã tìm cách bỏ qua, giờ đây đã xuất hiện rõ ràng là nhẹ nhõm hơn.

Friedman và Hayek đặt ra câu hỏi cốt lõi của học thuyết tân tự do ngay cả khi thế kỷ tự do vốn đã bắt đầu vào những năm 1820 đang dần kết thúc đầy bạo lực. Sinh ra trong một gia đình Vienna khá giả vào năm 1899, Hayek lớn lên ở đỉnh cao của chủ nghĩa tự do kiểu hiệp sĩ Trung Âu. Được đào tạo về luật và khoa học chính trị tại Đại học Vienna, một cựu chiến binh trong Thế chiến thứ nhất và là độc giả trung thành của John Stuart Mill, ông là sản phẩm của thời đại lúc ấy và do đó cảm thấy có trách nhiệm phải giải thích sự sụp đổ đẫm máu của nó.

Khi làm như vậy, Hayek đã áp dụng quan điểm mạt thế về lịch sử khá phổ biến. Giống như rất nhiều người khác, ông đọc cuốn sách khải huyền Sự suy tàn của phương Tây (The Decline of the West) của Oswald Spengler và phản ánh thái độ khinh thường của những người bảo thủ Đức đối với các thành phố quốc tế hiện đại như New York khi ông lần đầu tiên đặt chân đến Mỹ.

Nửa đầu nghiên cứu của Caldwell và Klausinger cho thấy “Fritz” đang tính đến sự lu mờ của chủ nghĩa tự do Áo quý phái, quý tộc – mặc dù hơi bài Do Thái – mà ông luôn biết đến. Tuy nhiên, trường đại học vẫn là nơi diễn ra các cuộc tranh luận mang tính định hướng về triết học, tâm lý học và kinh tế. Hayek đã tiếp thu tất cả những điều này cho đến khi ông chịu sự chi phối của Ludwig von Mises sắc bén và hay gắt gỏng, một nhà kinh tế học nổi tiếng với nghiên cứu về tiền tệ và phê phán cách tính toán kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cuộc lạm phát lớn những năm 1914-24 đã đặt các cuộc tranh luận về sự ổn định thị trường và các mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vào trung tâm mọi hoạt động học thuật của những người theo chủ nghĩa tự do.

Chính nhu cầu tìm hiểu cơ chế giá cả mong manh này đã dẫn đường cho Hayek bước vào lĩnh vực kinh tế. Liệu có thể có sự ổn định tư bản chủ nghĩa nếu không có sự điều tiết cẩn thận về cung ứng tiền tệ? Hay như Hayek đã đưa ra trong một nghiên cứu ban đầu về chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ, liệu có biện pháp nào khác sẽ trở thành một mánh lới quảng cáo “nhân tạo” không?

Những câu hỏi này đã xuất hiện – dưới dạng lý thuyết hiện đại về giá cả – từ Trường phái Vienna đến Trường phái Chicago, thúc đẩy một cuộc tranh luận sôi nổi và lành mạnh sẽ định hình cả Friedman và Hayek. Cuối cùng, Hayek giỏi hơn trong việc xác định rõ ràng các vấn đề và thử nghiệm các công cụ để khám phá lý thuyết về chu kỳ kinh tế, hơn là đưa ra những câu trả lời chắc chắn và dứt khoát. Với sự kết hợp của những biến động kinh tế dữ dội từ lạm phát 1914-24 đến sự sụp đổ của thị trường sau năm 1929, Hayek nhận thấy rằng vai trò của giá cả đối với sự bền vững xã hội trong chủ nghĩa tư bản đã đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan – một tình huống khiến ông rơi đến bờ vực suy sụp thần kinh.

VỀ NÔ DỊCH VÀ CON NGƯỜI

Năm 1931, một lời mời giảng dạy tại Trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) đã kéo Hayek ra khỏi vòng xoáy của trường phái Áo và đưa ông vào trung tâm của cuộc tranh luận về cách nhà nước có thể bù đắp cho những thất bại của thị trường. Chính tại Luân Đôn, ông đã viết tác phẩm mang tính bước ngoặt Đường về nô lệ (The road to serfdom), văn bản nguyên thủy về học thuyết tân tự do thời hậu chiến, và là lời đáp trả trực tiếp cho văn bản nguyên thủy khác của kinh tế học thế kỷ 20, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ của John Maynard Keynes (General Theory of Employment, Interst and Money). Nhưng trong cuộc đấu tranh sau đó giữa kế hoạch điều tiết kinh tế và thị trường tự do, Hayek đã thua. Theo lời của một trong những học trò trung thành nhất của ông: “Khi tôi đến London School of Economics vào đầu những năm 1930, mọi người đều là người theo Hayek; vào cuối thập kỷ chỉ còn lại hai người: Hayek và tôi.”

Thời kỳ tự do đi qua buộc Hayek phải đào sâu hơn vào hoạt động và sau đó tháo gỡ nền kinh tế thị trường. Ông thấy các lực lượng thị trường là cần thiết để phối hợp hoạt động khi kiến thức bị phân tán và mang tính chủ quan. Trong trường hợp không có chính quyền trung ương, hàng triệu cuộc trao đổi và chuyển giao thông tin giữa con người với nhau qua một loạt hoạt động nhằm giúp cơ chế giá được điều chỉnh, báo hiệu và hướng dẫn lựa chọn cho người dân.

Để đối phó với những hậu quả bi thảm của cuộc Đại suy thoái, các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách đã tận dụng “kế hoạch hóa” như một giải pháp cho thị trường không có khả năng tự điều chỉnh. Tuy nhiên, Hayek coi việc lập kế hoạch không chỉ là một phương tiện; đó là một biến động nhận thức toàn diện báo hiệu sự kết thúc cuối cùng của chủ nghĩa tự do thế kỷ 19. Tự do đã tạo ra sự thịnh vượng, tuy nhiên nỗi lo duy trì những tiện nghi đã đạt được hiện đang khiến người dân đi theo xu hướng là, nhà nước quản lý việc sản xuất và phân phối hợp lý.

Niềm tin vào khả năng điều khiển thông tin, công cụ mới và lý trí khoa học của con người nhằm phục vụ cho một tương lai đã được hoạch định là phù hợp với tinh thần của thời đại. Đó là lý do tại sao Keynes trở thành kẻ thù của Hayek. Những xung đột giữa họ đã được phân loại rõ ràng đến mức thật khó để tưởng tượng bất kỳ chi tiết nào có thể thay đổi bức tranh mà chúng ta có về Keynes và nhà nước điều tiết phúc lợi  hiện đại đang trên đà phát triển, cũng như về Hayek và một số ít những người theo chủ nghĩa tự do trong trật tự có nguồn gốc từ Đức (Ordoliberals) có vẻ cộc cằn đóng vai Cassandras [2].

Nhưng sự cường điệu xung quanh kỹ năng chuyên môn và công nghệ đã làm được nhiều điều hơn là nhấn mạnh những mâu thuẫn giữa những người theo chủ nghĩa Keynes và những người theo chủ nghĩa Hayek; nó cũng tiết lộ rằng, Hayek lo lắng đến mức nào về sự tự tin thái quá của xã hội hiện đại vào khả năng làm chủ thế giới của nó, cái mà ông gọi là “chủ nghĩa khoa học”. Ông trút toàn bộ sự thất vọng của mình vào cuốn sách Đường về nô lệ. Được coi là một phần của nghiên cứu hai tập ban đầu có tên “Sự lạm dụng và suy thoái của lý trí (The Abuse and Decline of Reason)”, Đường về nô lệ kể từ đó đã trở thành nền tảng của tư tưởng tân tự do. Như Hayek đã viết trong một bức thư gửi nhà báo Mỹ Walter Lippmann vào năm 1937, “toàn bộ xu hướng lập kế hoạch là kết quả của sự hiểu lầm về phương pháp ‘khoa học’ và là kết quả của sự hồ hởi về sức mạnh lý trí của con người bị lạm dụng bởi tiến bộ khoa học trong suốt trăm năm qua.” Lý trí không phải là một vật; nó là một quá trình, ngụ ý rằng sự tiến bộ không thể được lên kế hoạch.

Khi Không quân Đức ném bom xuống London, Hayek vẫn tiếp tục nghiên cứu và viết lách. Khi Đường về nô lệ xuất hiện ở Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1944, nó được ca ngợi là “tác phẩm của thời đại”. Nhưng nó cũng đã được chứng minh là sự phê phán vượt thời gian đối với việc lập kế hoạch và là sự biện hộ – thường bị các nhà tiếp thị tự do sau này ngăn cản – đối với việc theo đuổi những giá trị cao hơn trong việc hướng dẫn một nền kinh tế. Nhiều người dễ dàng quên rằng Hayek đã chỉ trích chính sách tự do thả lỏng (laissez-faire) và ủng hộ các chính sách phúc lợi, nếu không vì lý do nào khác ngoài việc cản trở sự kêu gọi của việc kế hoạch hóa tập trung. Khi Keynes đọc Đường về nô lệ trong khi tới Bretton Woods để cùng thiết kế trật tự kinh tế thời hậu chiến, ông thấy mình “đang trong một sự đồng thuận vô cùng xúc động”.

Trong tập đầu tiên về cuộc đời Hayek, Caldwell và Klausinger đã tiến hành kiểm tra kỹ lưỡng các tài liệu đã xuất bản và lưu trữ đến mức đôi khi họ để các chi tiết lấn át nội dung. Nhưng ngay cả khi không lật trang nào, Hayek: A life vẫn là một tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc. Họ thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ quanh co của đối tượng để trả lời các câu hỏi cơ bản và họ theo dõi ông ta cho đến khi ông trở nên nổi tiếng ở Mỹ. Sau khi phiên bản cô đọng của Đường về nô lệ xuất hiện trên Reader’s Digest, nó đã trở thành một hiện tượng giật gân trong những năm đầu Chiến tranh Lạnh, và ảnh hưởng gấp đôi qua lời đả kích chống lại cả hai: chủ nghĩa xã hội và sự hào phóng của chính phủ.

Vài triệu bản đã được in, bao gồm cả phiên bản đồ họa, và General Motors đã phát hành ấn bản tập sách nhỏ của riêng mình. Sau này Hayek phát hiện ra rằng, phiên bản rút gọn này đã bôi nhọ các nhà hoạch định kinh tế là những người theo chủ nghĩa xã hội và là kẻ thù của tự do. Nó cũng loại bỏ các phần quy định trách nhiệm của người tiêu dùng với tư cách là tác giả của việc quay trở lại chế độ nô lệ, vì họ sẵn sàng từ bỏ gánh nặng đưa ra các lựa chọn để có được sự thoải mái của sự chắc chắn. Đây không phải là lần đầu tiên những ý tưởng của Hayek bị bóp méo để phục vụ cho một dự án mà ông vừa sẵn sàng liên minh vừa thường xuyên cảm thấy không hài lòng.

CON NGƯỜI KINH TẾ

Tuy nhiên, phần lớn Hayek giữ mối quan tâm cho riêng mình, một phần vì ông cần tiền. Sách bán chạy nhất là tấm vé giúp ông trang trải chi phí cho một cuộc ly hôn phiền toái. Ở phần cuối cuốn sách của Caldwell và Klausinger, đó là năm 1950 và Hayek đã quyết định rời LSE để đến làm việc tại Đại học Chicago với mức lương cao hơn. Tuy nhiên, người chủ mới của ông không phải là Khoa Kinh tế mà là Ủy ban Tư tưởng Xã hội, và tiền lương của ông không phải do trường đại học trang trải mà do Quỹ William Volker.

Những mối quan hệ này với Quỹ Volker, một tổ chức từ thiện được thành lập bởi một ông trùm kinh tế thuộc thành phố Kansas cam kết ủng hộ các mục tiêu tự do, là chìa khóa cho một di sản khác của học thuyết Hayek: việc thành lập Hiệp hội Mont Pèlerin, được đặt tên theo ngọn đồi nhìn ra Hồ Geneva, nơi một nhóm tự nhận mình là những người theo học thuyết tân tự do tập hợp lại để khôi phục niềm tin dưới cái bóng của Stalin và nhà nước phúc lợi. Mont Pèlerin nổi bật trong truyền thuyết tân tự do như là hạt giống mà từ đó một mạng lưới toàn cầu phát triển, lan rộng các nhánh của nó cho đến khi nó trở thành chính thống mới, nâng tầm các thế hệ sau của nó đến số 10 Downing Street (trụ sở chính phủ Vương quốc Anh) và Nhà Trắng.

Mặc dù mục tiêu ban đầu, vào năm 1947, chỉ đơn giản là tổ chức một hội nghị dành cho những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt tình từ Châu Âu và Bắc Mỹ, Hayek muốn nhiều hơn thế ngay từ đầu, hình dung ra một “hiệp hội” gồm các nhà tư tưởng để xây dựng lại nền tảng trí tuệ của chủ nghĩa tự do. Nguồn cảm hứng của ông là một cuộc họp tương tự do Lippmann và Louis Rougier chủ trì (nơi đặt ra thuật ngữ học thuyết tân tự do ) ở Paris vào năm 1938. Nhưng sau khi các nhà hoạch định trung ương chấm dứt cuộc suy thoái và giành chiến thắng trong chiến tranh, liên minh tân tự do đã trở nên nhỏ hơn so với các phái đoàn tại Paris một thập kỷ trước đó. So với cuộc chiến anh dũng chống lại chủ nghĩa toàn trị, cuộc đấu tranh của Hiệp hội Mont Pèlerin chống lại chủ nghĩa Keynes xem ra không hấp dẫn bằng.

Hơn nữa, các ranh giới sớm xuất hiện giữa những người theo chủ nghĩa thực dụng và những người lý tưởng, giữa các nhà kinh tế và các triết gia, cũng như giữa những người tán thành các chính sách cụ thể và những người ủng hộ các nguyên tắc nền tảng. Karl Popper và Von Mises thậm chí còn tranh cãi về danh sách những người được mời, và một người tham gia khác đã chỉ trích Von Mises với lập luận rằng, “sự tự do hoàn hảo tồn tại trong rừng rậm. Ở đó không có luật pháp. Tôi nghĩ nếu chúng ta thực hiện những đề nghị của giáo sư Von Mises thì chúng ta sẽ ở trong rừng rậm”. Tuy nhiên, nhờ kỹ năng tổ chức và ngoại giao của nhà kinh tế người Anh Lionel Robbins cũng như quyết tâm của Hayek, cuộc gặp đã đạt đến thỏa hiệp với bản ghi nhớ cuối cùng đưa Hayek trở thành chủ tịch của hiệp hội mới.

Hiện diện tại buổi thành lập Hiệp hội Mont Pèlerin có Friedman, một ngôi sao đang lên tại Khoa Kinh tế của Đại học Chicago, người đã vận động để hạn chế thuế và chi tiêu chính phủ. Tại phiên họp cuối cùng của hội nghị Mont Pèlerin, ông lập luận rằng việc giải cứu chủ nghĩa tự do đòi hỏi phải loại bỏ tất cả các chính sách chống đói nghèo, ngoại trừ cải cách thuế thu nhập. Hayek vặn lại: “Tự do không làm việc là một thứ xa xỉ mà nước nghèo không thể mua được.” Theo quan điểm của Hayek, để thị trường phân loại xem một người có việc làm hay không và để thuế thực hiện tất cả công việc giảm nghèo không phải là con đường dẫn đến sự đổi mới của chủ nghĩa tự do.

HAI CON ĐƯỜNG CHICAGO

Thật khó để tưởng tượng hai nhân cách có thể khác nhau hơn. Ở bên cạnh nhau, Hayek, người gần như quý tộc ở Cựu Thế giới, và Friedman, người Do Thái tốt nghiệp Đại học Rutgers ở New Jersey, thực sự đã trở thành một cặp đôi kỳ quặc. Người trước [Hayek] lớn lên trong những năm hoàng hôn của chủ nghĩa tự do, trong khi người sau bắt đầu sự nghiệp của mình trong thời kỳ Đại suy thoái. Người trước hoàn toàn thờ ơ với gia đình, trong khi người sau là người chồng tận tụy của một người vợ và đồng tác giả tài giỏi không kém, Rose Friedman.

Trên thực tế, như Burns đã chỉ ra, Friedman đã làm rất nhiều việc để hỗ trợ và thúc đẩy các nữ kinh tế gia. Nhưng những nỗ lực này đều có giới hạn của chúng. Giải Nobel được trao cho ông năm 1976 không được chia sẻ với Anna Schwartz, đồng tác giả của ông trong cuốn Lịch sử tiền tệ Hoa Kỳ (A Monetary History of the United States), trong đó đã định hình lại chủ nghĩa tư bản Mỹ kể từ thời kỳ Tái thiết sau Nội chiến như một cuộc đấu tranh giành nguồn tiền – thoát ra khỏi Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ vì đã biến cuộc khủng hoảng thành đại suy thoái trong những năm 1930. Tương tự, khi Tổng thống Mỹ Ronald Reagan trao tặng Huân chương Tự do cho Friedman năm 1988, Friedman không chia sẻ điều đó với Rose, nhưng ông luôn coi bà ngang hàng về mặt trí tuệ với mình. (Tổng thống George W. Bush sau đó đã châm biếm rằng bà là người duy nhất từng đánh ông trong một cuộc tranh cãi).

Tính ngang ngược của Friedman tương phản với phong cách Olympia nghiêm chỉnh của Hayek. Xu hướng của Friedman thường ngắt lời các diễn giả và lôi kéo họ vào cuộc tranh luận đã khiến Hayek mất tập trung, và các hội nghị thượng đỉnh Mont Pèlerin khiến ông càng bất mãn hơn khi ngôi sao Friedman càng nổi lên hơn trong phong trào.

Nhưng cũng có sự khác biệt sâu sắc hơn giữa hai người, một sự khác biệt hiện đang diễn ra trong Đảng Cộng hòa ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Sau đó, như bây giờ, những người theo học thuyết tân tự do đang chia rẽ sâu sắc về quan điểm. Friedman lạc quan về khả năng phục hồi của thị trường và xu hướng cá nhân muốn làm xói mòn mọi nỗ lực của chính phủ nhằm quản lý chúng. Hayek, đặc biệt là trong Đường về nô lệ, đã đi đến kết luận ngược lại: người tiêu dùng sẽ kêu gọi chính phủ kiểm soát để xoa dịu những bất ổn của họ khi nhu cầu của họ ngày càng tăng. Cả hai đều nghiêng về niềm tin vào những kết quả tất yếu của lịch sử, chỉ với mục đích đưa ra những lời tiên tri trái ngược nhau về những gì lịch sử đã dự đoán.

Tuy nhiên, họ có chung niềm tin cơ bản vào tính hiệu quả của thị trường và tầm quan trọng của tài sản tư nhân đối với một xã hội tự do. Họ phát triển mạnh khi chủ nghĩa suy thoái là tinh thần của thời đại; cả hai đều tin rằng chủ nghĩa tự do luôn bị đe dọa và cần được giải cứu. Một điều không được bảo vệ là, thị trường như một đứa trẻ ngây thơ đang chờ đợi bị tấn công bởi những con sói của chủ nghĩa thống kê, chủ nghĩa xã hội và các kiến trúc sư chính sách xã hội.

Nghĩ thế nào về những nhà tư tưởng tân tự do này phụ thuộc vào quan điểm của mỗi người. Khi tầm nhìn được kéo ra xa, chúng hợp nhất thành một truyền thống bảo vệ tài sản cá nhân hơn là hàng hóa công, thị trường hơn là nhà nước và quyền lựa chọn thay vì an ninh. Tuy nhiên, hãy phóng to gần hơn và sự khác biệt sẽ xuất hiện. Số phận của thể loại tiểu sử là đưa ống kính đến gần đối tượng và làm mờ hậu cảnh. Kết quả là, tầm quan trọng của những ý tưởng tân tự do cụ thể đối với phong trào rộng lớn hơn không phải lúc nào cũng hiển hiện rõ ràng.

Theo hiểu biết của tôi thì cả Hayek và Friedman đều nhận thức đầy đủ về lợi ích của ý tưởng của họ đối với những lợi ích cụ thể – và ở một mức độ nhất định, mục đích chính là phục vụ những lợi ích đó. Cam kết của họ về tính khách quan trong kinh tế học chắc chắn sẽ bị phản đối – một số người có thể nói là gắn liền với – các mục tiêu của những người bảo trợ họ.

CÁI GIÁ NHƯ THẾ NÀO?

Câu chuyện của Friedman đặc biệt minh họa cho sự căng thẳng này, phần lớn là do ông quan tâm đến việc thay đổi chính sách công hơn Hayek. Burns theo dõi cuộc đời của Friedman từ thời gian ban đầu của ông tại Đại học Chicago – nơi ông tiếp cận với sự phức tạp của lý thuyết giá cả do những người sáng lập ra nó, đặc biệt là Frank Knight đề xuất – cho đến sự nổi lên của ông trong các cuộc tranh luận về chính sách phúc lợi và tiền tệ của Hoa Kỳ vào thập niên 1970 và thập niên 1980.

Nhưng cuốn sách cũng có thể được đọc như một chuyến tham quan cuộc tranh luận rộng hơn về chủ nghĩa tư bản, được nhìn qua con mắt của một người có quan điểm kiên định ngay từ đầu. Tại Chicago, Burns lưu ý, “giá cả đã là chính sách” và do đó trở thành điểm tựa cho tư tưởng của Friedman, bất kể tâm trí ông phiêu lưu đến đâu. Và nó đã mạo hiểm thực hiện trên một phạm vi rộng lớn, từ lý thuyết tiêu dùng và tiền tệ đến các phương pháp dự đoán và lịch sử kinh tế.

Điều đáng chú ý là Friedman ít thay đổi suy nghĩ của mình về các nguyên tắc cơ bản và ông ít đau khổ về những đối kháng với quan điểm của mình, trái ngược với Hayek thường tự dày vò bản thân, như Caldwell và Klausinger trình bày. Đối với một nhà kinh tế học thực nghiệm sâu sắc, ông hiếm khi để dữ liệu hoặc khái niệm mới làm lung lay niềm tin của mình. Thay vào đó, Friedman đã tích lũy các công cụ, dữ liệu và cuối cùng là một câu chuyện tổng thể về chủ nghĩa tư bản Mỹ – tất cả nhằm thúc đẩy một cuộc tấn công toàn diện vào chủ nghĩa Keynes.

Với những nỗ lực của mình, ông ấy sẽ giành được sự công nhận lớn nhất dành cho một nhà kinh tế học, ngay khi các yếu tố của nhà nước phúc lợi bắt đầu sụp đổ. Nhưng Friedman không chỉ quan sát và đưa ra giả thuyết về tinh thần đang thay đổi của thời đại; ông ấy là một người tranh đấu tích cực. Ngày Friedman nhận giải Nobel năm 1976, ông không có mặt ở văn phòng Chicago hay trên bục giảng; ông đang gọi điện cho các đại biểu tham dự hội nghị hiến pháp bang Tennessee, kêu gọi họ chống lại những người thúc đẩy chi tiêu lớn, đồng thời đến Detroit để sửa đổi hiến pháp của Michigan nhằm giới hạn các khoản giải ngân công.

Sự nhiệt tình của Friedman đối với việc vận động quần chúng cho thấy sự sẵn sàng nhìn vào sự phức tạp của quá khứ, cũng như hợp tác với các nhà tài trợ đang thúc đẩy các cuộc thập tự chinh gay gắt. Burns kể câu chuyện về mối quan hệ của Friedman với Quỹ Volker và Quỹ Giáo dục Kinh tế, đã bóp méo thông điệp của một cuốn sách nhỏ mà ông là đồng tác giả với George Stigler, một người bạn thân và đồng nghiệp ở Chicago. Các tác giả đã tố cáo tác động của việc kiểm soát tiền thuê nhà đối với thị trường nhà ở, nhưng họ vẫn bày tỏ nhận thức về những cân nhắc công bằng. Nhưng thật tương phản, cuốn sách nhỏ cuối cùng – với số lượng in nửa triệu bản, được tài trợ bởi Hiệp hội các Hội đồng Bất động sản Quốc gia – đã loại bỏ đoạn văn về sự bình đẳng.

Stigler và Friedman tỏ ra phẫn nộ. Nhưng theo thời gian, Friedman đã học được cách chấp nhận những thỏa hiệp như vậy khi ông dần trở thành một ngôi sao trong ngành truyền thông in ấn, chia sẻ một mục luân phiên trên Newsweek với nhà kinh tế học trường phái Keynes là Paul Samuelson, trở thành một người thường xuyên xuất hiện trên truyền hình. Ông trở thành nhà kinh tế học nổi tiếng đầu tiên trên thế giới, một phần vì ông đã tìm ra cách kết hợp thông điệp của mình với giới truyền thông, cô đọng nó thành những tuyên bố sắc sảo, góc cạnh, loại bỏ những tế nhị về sắc thái hay định tính.

Đến lúc đó, câu hỏi liệu tự do có phải là điều kiện then chốt của thịnh vượng hay không đã được đặt ra. Một số sinh viên và đồng nghiệp cũ của ông từ Đại học Chicago đã trở lại Chile và lãnh đạo nhiệm vụ đẩy lùi nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi quân đội lật đổ chính phủ dân cử của Salvador Allende vào năm 1973, “Những chàng trai Chicago” đã nắm giữ vai trò cầm cân nẩy mực đòn chính sách kinh tế. Tướng Augusto Pinochet có thể là một kẻ bị quốc tế ruồng bỏ, nhưng ông đã biến Chile thành phòng thí nghiệm cho những nhà tiếp thị tự do cấp tiến và phương pháp điều trị sốc để chống lạm phát.

Rolf Lüders, một ông trùm kinh tế kiêm bộ trưởng nhà nước, người trước đây đã viết một luận án do Friedman đỡ đầu, đã tổ chức một chuyến du lịch kéo dài sáu ngày cho người cố vấn của mình vào năm 1975. Khi ở Chile, Friedman đi lại giữa khách sạn Sheraton, nhiều bộ ngành, ngân hàng trung ương, gặp gỡ cá nhân với Pinochet và tổ chức các buổi trình diễn công cộng với giới truyền thông. Nhưng chuyến thăm có ít ảnh hưởng đến chính sách, vì các môn đồ Chicago đã bắt tay vào kế hoạch định hình lại chủ nghĩa tư bản Chile. Cùng lắm, Friedman đã xoa dịu sự dè dặt của Pinochet về chính sách thắt lưng buộc bụng, cố gắng bảo vệ và giải thích những ưu điểm của nó một cách công khai.

Trong khi đó, Friedman làm ngơ trước những hành vi vi phạm nhân quyền tràn lan, đây là một trong số ít trường hợp ông thừa nhận mình không biết gì. Sự ủng hộ mạnh mẽ của ông đối với việc điều trị sốc, cùng với việc ông háo hức đổ lỗi cho các vấn đề kinh tế của đất nước là do nhu cầu của nông dân và công nhân dưới thời Allende, trái ngược với những tuyên bố (nhạt nhẽo) thờ ơ của ông về chính trị Chile. Về chủ đề tàn ác của chế độ quân sự, ông không có gì để nói. Ông ta tỏ ra rất hạnh phúc khi tạo dáng trước micro để quảng bá ý tưởng của mình, và tỏ ra không biết gì về vai trò “người hề” của chính ông đối với cuộc phản cách mạng của Pinochet.

Cuộc dạo chơi khắp Chile minh họa cho sự lập lờ đằng sau những lời kết tội của Friedman. Mặc dù từ lâu ông đã tự coi mình là một người theo chủ nghĩa tự do, người tin vào bản chất tự do và thịnh vượng, nhưng Chile lúc đó là thời điểm của sự thật. Buộc phải lựa chọn, ông nói rõ rằng thị trường quan trọng hơn dân chủ.

Như Friedman đã lập luận trước một khán giả Chile đang kinh ngạc, “thị trường kinh tế” mang tính tăng cường dân chủ hơn “thị trường chính trị”. Trong chính trị, nơi mà sự lựa chọn là có hoặc không, nhiều người bị tước quyền bầu cử; nhưng trong kinh tế học, có rất nhiều lựa chọn nên sẽ có rất ít lựa chọn bị loại bỏ. Friedman dường như chưa nghe thấy lời cảnh báo của Hayek vào năm 1947 về ảo tưởng có thể lựa chọn của những người không có việc làm. Trong thế giới thực, tỷ lệ thất nghiệp ở Chile lên tới 20% nhờ cách đối xử sốc mà Friedman đang bảo vệ.

Vào giữa những năm 1970, Friedman đã từ bỏ việc theo đuổi học thuật từ lâu và bắt tay vào một chiến dịch toàn cầu chống lại các chính sách phúc lợi và phát triển của trật tự sau năm 1945. Ông đã ăn tối với Margaret Thatcher một năm trước khi bà lên làm thủ tướng Anh và gửi cho bà một tin nhắn chúc mừng khi số phiếu trở nên rõ ràng vào đêm bầu cử. Bà ấy trả lời bằng một bức điện mà sự hiếu thắng có thể khiến Hayek phải vặn vẹo: “Trận chiến đã bắt đầu. Chúng ta phải thắng.”

MỘT DI SẢN PHỨC TẠP

Kỷ nguyên của học thuyết tân tự do có phải là sự chiến thắng của các ý tưởng? Nếu vậy, người ta phải hỏi ý tưởng nào, bởi vì như Burns, Caldwell và Klausinger đã chỉ ra, toàn bộ dự án dựa trên một tập hợp các khái niệm đôi khi không phù hợp với nhau.

Hoặc có lẽ những ý tưởng này chỉ đơn thuần mang lại bề ngoài đáng kính trọng về mặt trí tuệ cho một chiến dịch vì lợi ích cá nhân của những người giàu có trong xã hội. Quan điểm này chắc chắn đã được chú ý kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Sự thất vọng với thương mại tự do đang lan rộng và chúng ta đã chứng kiến sự trở lại của nhà nước quản lý chi tiêu công. Kể từ những năm 1930, khi hạt giống của học thuyết tân tự do được gieo mầm, các tầng lớp thống trị tư lợi mới bị giám sát chặt chẽ đến vậy. Chúng ta không nên ngạc nhiên khi những khái niệm mà họ đưa ra cũng đã bị các nhà sử học và nhà khoa học xã hội chỉ trích vì sự phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa giai cấp và thái độ dao động đối với nền dân chủ.

Nhưng khi xem xét kỹ hơn và với những ý tưởng được coi không chỉ là phương tiện đơn thuần để đạt được mục đích tư lợi, một cách giải thích khác sẽ xuất hiện. Cuộc tranh luận về thị trường ở thế kỷ 20, ngay cả giữa những người theo chủ nghĩa xã hội, mang mục đích định nghĩa lại cuộc sống hiện đại, cũng như cuộc tranh luận về bình đẳng chính trị và ý nghĩa của quyền công dân. Nhờ Burns, Caldwell và Klausinger, chúng ta có nền tảng cho một lý giải ít rút gọn hơn về thị trường của các ý tưởng và các ý tưởng về thị trường.

./.

Biên dịch: Tôn Thất Thông, tháng 12/2023

Tham khảo thêm:

Jennifer Burns, Milton Friedman: The Last Conservative (Người bảo thủ cuối cùng), Farrar, Straus và Giroux, 2023.

Bruce Caldwell và Hansjoerg Klausinger, Hayek: A Life (Cuộc đời Hayek), 1899-1950, Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2022.

Tác giả: JEREMY ADELMAN viết cho Project Syndicate từ năm 2015. Jeremy Adelman là Giám đốc Nghiên cứu Lịch sử Toàn cầu tại Đại học Princeton.

Nguồn: The two faces of neoliberalism – Project Syndicate ngày 6/10/2023

Ghi chú của người dịch:

[1] Armageddon là một trận chiến khốc liệt liên quan đến mặc khải Thánh Johannes được ghi chép trong Thánh Kinh. Trong ngữ cảnh hôm nay, thuật ngữ đó là cách nói ẩn dụ về một cuộc đấu tranh quyết liệt một mất một còn với thiệt hại vô cùng lớn.

[2] Cassandra trong thần thoại Hy Lạp là biểu tượng của nữ thần thảm họa, người có khả năng đoán trước mọi tai họa, nhưng lại không có ai tin, vì Thượng Đế đã trừng phạt Cassandra như thế.

Trở về trang chủ

Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông