Trang chủ » ISRAEL – MIỀN ĐẤT HỨA, QUỐC GIA BỊ ĐE DỌA

ISRAEL – MIỀN ĐẤT HỨA, QUỐC GIA BỊ ĐE DỌA

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Tôn Thất Thông
Chọn lọc và tóm tắt từ phóng sự của đài ZDF, kênh Terra X History

Chúng tôi đã thả bóng ma tôn giáo thoát ra khỏi cổ chai. Vì trong thực tế, chúng tôi đã thả lỏng cho những thành phần tôn giáo cực đoan tha hồ hoành hành. Và điều đó đặt thêm một dấu hỏi lớn về tương lai của dân tộc Israel. Tôi tin rằng, Israel vẫn sẽ tồn tại. Nhưng một quốc gia Israel như thế nào trong tương lai, để cho những người như tôi có thể sống được? Đó còn là một câu hỏi lớn.
Élie Barnavi, cựu đại sứ Israel ở Paris.

***

Sau Thế chiến II, ngày 14.5.1948 là ngày lịch sử lập quốc của Israel. Người ta hân hoan chào mừng trên các con đường Tel Aviv. Đó là một ngày mà lịch sử vùng Trung Đông vĩnh viễn thay đổi. Người Do Thái hân hoan chào mừng sự kiện họ đã khao khát chờ đợi từ nhiều thế kỷ. Nhưng rạng đông ngày hôm sau, hàng loạt máy bay Ai Cập gầm rú trên bầu trời Tel Aviv. Sáu quốc gia Ả Rập liên minh với nhau quyết tiêu diệt quốc gia non trẻ Israel.

Nhà sử học Élie Barnavi, cựu đại sứ Israel tại Paris nhớ lại: “Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, người Do Thái đã chịu rất nhiều khổ đau, và Thế chiến II tất nhiên là cao điểm tận cùng của thảm họa. Nhưng rồi chúng tôi cũng thành lập được một quốc gia từ sự đổ nát, và ngay từ giờ phút đầu đã bị đe dọa bởi các lực lượng thù địch. Họ cố gắng để hủy diệt chúng tôi. Câu hỏi về sự sống còn vẫn luôn luôn hiện hữu”. Ngay cả con đường dẫn đến ngày lập quốc Israel cũng chứa đầy chiến tranh. Và quả thực, kể từ ngày lập quốc, Israel thường trực bị đe dọa bởi chiến tranh và khủng bố từ bên ngoài. Còn bên trong thì các lực lượng cực hữu và tôn giáo đe dọa gây nên sự chia rẽ dân tộc. Cả quốc gia chưa hề được yên ổn – cho đến tận hôm nay.

Những học giả tham gia vào nội dung phóng sự,
bên cạnh ban biên tập kênh Terra X History, ZDF

Đó là một quốc gia mà nhân vật đầu tiên cần được nhắc đến là Theodor Herzl, một ký giả gốc Áo-Hung. Ông đã nhận thức được kể từ cuối thế kỷ 19 rằng từ nhiều thế kỷ, người Do Thái không những bị xua đuổi vì lý do tôn giáo, mà họ thuộc về một dân tộc bị đe dọa, một quốc gia không có đất dung thân cho riêng mình. Sử gia Jenny Hesterman nhận xét về Herzl: “Theodor Herzl thực ra là một người Do Thái đã hoàn toàn hội nhập vào tầng lớp tư sản châu Âu, và từ lâu đã cho rằng ai cũng có thể hội nhập dễ dàng vào xã hội. Nhưng rồi đến thập niên 1870, khi lý thuyết chủng tộc và tâm lý bài Do Thái khá phổ biến, Herzl dần dần thay đổi cách nhìn và cuối cùng phải đi đến kết luận rằng, không còn hy vọng nào để hòa nhập và được thừa nhận bình đẳng trong xã hội châu Âu. Ông nói: “Chúng ta cần một quốc gia riêng, nếu muốn tồn tại với tư cách một dân tộc”. Tổ chức Zionist Toàn cầu (World Zionist Organization) vì thế được thành lập năm 1897 tại Basel, Thụy Sĩ với Theodor Herzl là vị chủ tịch đầu tiên. Đó là bước đi đầu tiên dẫn đến việc thành lập quốc gia Do Thái sau này. Zionist xuất phát từ tên của ngọn đồi Zion ở Jerusalem. Chúng ta thường gọi Zionism là chủ nghĩa phục quốc Do Thái.

Mục tiêu đầu tiên của những người Zionist là tiến đến thành lập một khu định cư Do Thái trong vùng Palestine, lúc ấy vẫn còn là một tỉnh của đế chế Ottoman. Ở đó vào năm 1900, có khoảng chừng 500.000 người Ả Rập sinh sống, vốn từ nhiều thế kỷ trước đã nhận Palestine là quê hương. Họ sống chung hòa bình với chừng 10 ngàn người Do Thái, thêm một vài cộng đồng tôn giáo khác. Bà Suad Amiry người Palestine nhận xét: “Chúng tôi vẫn sống ôn hòa với nhau. Ngay cả đầu thế kỷ 20, lúc có người bán đất cho người Do Thái, điều đó cũng không gây nên sự đe dọa nào, và người bán cũng chẳng phải là phản quốc. Người Ả Rập hay Do Thái đều là một bộ phận của cộng đồng. Chúng tôi có vài làng thuần Do Thái ở đây, và cũng không có ai tấn công họ”.

Vào năm 1905, làn sóng người Do Thái gốc Nga đầu tiên chạy trốn khỏi các cuộc tàn sát của Nga Hoàng. Họ đến định cư thành các vùng Zionist trong Palestine. Đó là làn sóng di dân đầu tiên, và tiếp sau đó là nhiều đợt khác ngày càng đông, đặc biệt sau những cuộc tàn sát người Do Thái ở các vùng ảnh hưởng của Nga Hoàng ở Đông Âu. Trong lúc Thế chiến I còn tiếp diễn, để tranh thủ người Do Thái khắp nơi hỗ trợ Vương quốc Anh trong sự nghiệp chống lại Ottoman, ngoại trưởng Lord Balfour viết thư cho Rothshild, chủ tịch tổ chức Zionist ở Anh năm 1917 và tuyên bố rằng, Anh sẵn sàng cho phép thành lập một quốc gia Do Thái trong vùng Palestine. Trong thư, Balfour nói về viễn tượng quốc gia Do Thái: “His Majesty’s Government view with favour the establishment in Palestine of a national home for the jewish people”. Đối với người Do Thái, đó là một lời hứa hẹn, trong lúc ít người biết rằng sau hậu trường, Anh và Pháp đã chia nhau đất đai vùng Ả Rập cho thời đại hậu-Ottoman.

Năm 1922, nước Anh trở thành chủ nhân của vùng Palestine. Lời hứa hẹn của Balfour đã thúc đẩy những làn sóng di dân Do Thái đến Palestine. Những người Zionist mới định cư làm việc cùng nhau trong các cộng đồng tiểu công nghiệp và trồng trọt. Người giàu có thì mua lại ngày càng nhiều đất đai của cư dân Ả Rập. Sử gia Anita Shapira người Do Thái: “Người Ả Rập ngay từ đầu đã cảm thấy bị đe dọa bởi người Do Thái, mặc dù dân mới đến còn chiếm thiểu số và cũng không có gì đáng để sợ hãi. Nhưng những người mới nhập cư lại cho rằng, đó là đất đai của họ, và điều đó gây ra sự kháng cự từ cộng đồng Ả Rập”.

Năm 1933, Hitler lên nắm quyền ở Đức và cổ động một phong trào bài Do Thái triệt để. Người Do Thái gốc Đức chạy trốn qua Palestine ngày càng đông, nhiều người là học giả, nghệ sĩ, kiến trúc sư, khoa học gia, nói chung là giới trí thức và trung lưu giàu có. Trong thời gian đó, có 30.000 người Do Thái gốc Đức đến Palestine, đa số đến Tel Aviv. Thành phố mới được thành lập năm 1908, thì đến thập niên 1930 đã trở thành thủ phủ của 150.000 người. Năm 1936, người Ả Rập nổi dậy chống lại Anh và cả dân Do Thái. Anh phải gởi thêm quân đến Palestine để đàn áp. Cuộc nổi loạn khắp nơi làm cho 3.000 người Ả Rập thiệt mạng, thêm 600 người Anh và 2.500 người Do Thái tử vong.

Người Anh lần đầu tiên thử ngăn chặn làn sóng nhập cư Do Thái đến Palestine để giữ cho vùng này yên ổn, và nhất là trước thềm Thế chiến II ngày càng cận kề, Anh không muốn các nước Ả Rập chung quanh ngả về phía Quốc Xã Đức. Sử gia Élie Barnavi: “Khả năng duy nhất cho chúng tôi ở châu Âu trong thời gian này là di cư ra nước ngoài. Nhưng thực tế là không có nước nào muốn nhận người Do Thái. Nơi còn lại duy nhất để đến là Palestine. Nhưng người Anh lúc đó cũng không còn muốn nhận thêm người Do Thái, mặc dù Lord Balfour đã hứa hẹn. Lý do thật dễ hiểu, người Anh biết rằng chiến tranh sắp xảy ra và Anh thì muốn tranh thủ người Ả Rập làm đồng minh”.

Ngay cả trong thời Thế chiến II, việc nhập cư cũng bị hạn chế, trong một thời gian mà 6 triệu người Do Thái gốc châu Âu bị Quốc Xã Đức tàn sát. Chỉ có một số rất ít người sớm trốn thoát. Cho đến ngày 8.5.1945, ngày Đức đầu hàng vô điều kiện và Thế chiến II xem như chấm dứt. Người ta liên hoan ăn mừng chiến thắng đối với chế độ man rợ Đức Quốc Xã. Sử gia Anita Shapira hồi tưởng: “Chúng tôi đến Palestine vào mùa hè năm 1947. Cảm tưởng đầu tiên thật đáng sợ. Một người lính Anh giật con búp bê khỏi tay tôi và tìm kiếm gì đó ở trong đầu con búp bê. Mẹ tôi hoảng hốt, ‘trời ơi, chúng ta di cư về một nơi như thế này ư?’. Không khí thật là kỳ quặc, con người ở đó thật khác thường. Tất cả mọi chuyện thật là kỳ cục”.

Hầu hết những người Do Thái mới di cư từ châu Âu đều gia nhập Haganah, một tổ chức bán quân sự hoạt động ngầm, và là tiền thân của quân đội Israel sau này. Thanh niên thiếu nữ giờ đây không chỉ đấu tranh chống lại người Ả Rập, mà ngày càng nhiều cuộc đụng độ với người Anh. Năm 1946, quân khủng bố Do Thái đánh bom tổng hành dinh người Anh ở Jerusalem làm cho 91 người tử vong và vô số người bị thương, người Anh cũng như người Do Thái. Cuộc đánh bom đã có tác dụng lên giới chính trị ở Vương quốc Anh. Cường quốc thực dân này đã ngán ngẩm vùng đất Palestine và muốn phủi tay càng sớm càng tốt. Họ tự hỏi “có ích lợi gì mà phải chịu biết bao phiền toái ở Palestine”. Tháng hai 1947, nội các Anh quyết định từ bỏ vùng đất Palestine vô điều kiện.

Tháng tư năm 1947, Anh đẩy vấn đề Palestine cho Liên Hiệp Quốc, lúc đó mới có 56 thành viên, hoàn toàn nằm trong vòng thao túng của phương Tây, mà quan trọng nhất là Mỹ. Một Ủy ban Quốc tế Đặc biệt (UNSCOP) khuyến nghị chia vùng Palestine là hai, một phần thuộc quốc gia Do Thái, phần kia thuộc quốc gia Ả Rập. Cuộc bỏ phiếu được quyết định vào ngày 29 tháng tư 1947 với kết quả là 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu trắng. Đây là một ngày lịch sử: Một quốc gia của người Do Thái sẽ được chính thức thành lập trên vùng đất Palestine truyền thống.

Người Do Thái tất nhiên hân hoan chào đón nghị quyết của Liên Hiệp Quốc, trong lúc cộng đồng Ả Rập phản đối kế hoạch phân chia lãnh thổ. Cựu Quốc vụ khanh Suad Amiry người Palestine: “Cho đến đầu thế kỷ 20, chỉ có 3% đất đai ở khu vực Palestine là thuộc người Do Thái. Thế mà giờ đây, phần lớn đất đai được chia cho họ, đó là điều mà cộng đồng Ả Rập khó lòng chấp nhận. Thế nhưng nhìn ngược dòng lịch sử những năm sau này, một số người cho rằng, nếu lúc đó chúng tôi chấp nhận nghị quyết Liên Hiệp Quốc thì có lẽ kết cục lại tốt hơn hiện nay”.

Ben Gurion tuyên bố thành lập quốc gia Israel vào ngày 14 tháng 5 năm 1948. Cộng đồng Do Thái ai cũng cảm thấy hạnh phúc, vì ước mơ từ nhiều thế kỷ trước về một quốc gia Do Thái nay đã trở thành hiện thực. Các nước Ả Rập chung quanh phản ứng ngay ngày hôm sau. Một liên minh sáu nước Ả Rập xua quân vào Palestine. Anita Shapira: “Người Ả Rập muốn trục xuất chúng tôi ra khỏi nơi đây. Họ bảo rằng, họ sẽ ném tất cả người Do Thái xuống biển, nhưng điều đó đã không xảy ra”. Mặc dù quân số ít hơn các nước Ả Rập rất nhiều, nhưng quân Do Thái đã thành công trong việc đẩy lùi các cuộc tấn công trên các mặt trận. Élie Barnavi hồi tưởng: “Chúng tôi là những chiến binh có động lực tốt. Chúng tôi dù là một cộng đồng nhỏ, nhưng rất tin tưởng vào những gì mình làm. Chúng tôi chiến đấu trong tình trạng bị dồn vào chân tường, và là lực lượng có tổ chức rất tốt, được huấn luyện kỹ từ trước”.

Israel không chiếm được toàn bộ thành phố Jerusalem. Qua trung gian của Liên Hiệp Quốc, hai bên đồng ý ngưng chiến vào năm 1949. Đất đai của Israel được nới rộng thêm 1/3 so với bản đồ phân chia của Liên Hiệp Quốc năm 1947. Vùng Tây Jordan được sát nhập vào Jordan. Dải Gaza thuộc về Ai Cập. Palestine biến mất trên bản đồ thế giới. Nhiều người Palestine mất tất cả của cải và quê hương. Cho đến bây giờ, họ gọi đó là biến cố Nakba – tạm dịch là “Thảm họa”. Sử gia Élie Barnavi nhận xét hơi chua chát: “Nakba không phải là huyền thoại, mà là một thực trạng. Khoảng 700.000 người Palestine rời bỏ quê hương. Một số tự quyết định ra đi vì sợ hãi. Nhiều người khác thì bị quân đội Israel xua đuổi”. Có thể nói người Palestine rời quê hương với họng súng Israel trên trán. Chấn thương khủng khiếp cho đến nay là, chính phủ Israel không cho phép họ trở về, mặc dù họ rất muốn trở lại nơi đã sinh sống, dù dưới sự cai trị của Israel. Đó là quê hương của họ, có tài sản của họ, có bà con thân thuộc của họ. Nhưng việc trở về hoàn toàn bất khả thi với lệnh cấm của Israel.

Đối với người Do Thái, việc thành lập quốc gia Israel là cơ hội để trở về. Mọi cửa ngõ biên giới đều mở rộng cho giáo dân Do Thái. Họ trở về hàng đoàn. Sử gia Élie Barnavi nhận xét mỉa mai với đồng hương: “Người Do Thái trở về từ châu Âu và vùng chung quanh Địa Trung Hải. Họ được phân phát tất cả mọi thứ đã tịch thu từ cộng đồng Ả Rập. Họ nhận được đất đai, nhà cửa, tất cả mọi loại tài sản của người Ả Rập. Nói chính xác theo nghĩa đen, một nhóm dân tộc này đã thay thế nhóm dân tộc khác. Đó là điều đã xảy ra trên đất Palestine”.

Mười chín năm sau, vào mùa xuân 1967, sau một khoảng thời gian hòa bình ngắn ngủi, liên quân Jordan và Syria xuất phát từ cao nguyên Golan tiến vào tấn công các khu định cư Do Thái ở vùng Bắc Israel. Tổng thống Ai Cập và Syria tuyên bố công khai rằng, cuộc chiến tranh với Israel sẽ diễn ra nay mai. Sử gia Anita Shapira hồi tưởng: “Chúng tôi trong cộng đồng vô cùng sợ hãi, nhất là khi ký ức về cuộc tàn sát Holocaust vẫn còn tươi nguyên. Và quả thực, nỗi sợ hãi về sự hủy diệt cả cộng đồng rất lớn, lần này trên chính quê hương Israel. Tôi nhớ rằng, cha tôi đã nói, chúng ta đã xây dựng một cuộc sống tốt đẹp ở đây, và giờ đây tất cả sẽ bị hủy diệt”.

Nhưng trước sự ngạc nhiên của cả thế giới và nhất là Ai Cập, cuộc chiến đã diễn ra hoàn toàn khác. Không cần hỏi trước ý kiến của Mỹ, Israel tự quyết định thực hiện một cuộc không kích bất ngờ và chớp nhoáng. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ ngày 5 tháng 6 năm 1967, không lực Israel phá hủy hơn 400 chiến đấu cơ của Ai Cập đang sẵn sàng cho cuộc chiến. Mọi phi trường đều hết sử dụng. Sau đó 70.000 bộ binh và 700 xe tăng Israel tiến đánh các đơn vị của quân đội Ai Cập, chiếm dải Gaza và bán đảo Sinai. Ngay trong ngày đầu tiên, quân đội Ai Cập hoàn toàn bị vô hiệu hóa và ở ranh giới của sự đầu hàng. Ở phía Đông, Israel tấn công Jordan, tiến vào chiếm khu phố cổ Jerusalem.

Sử gia Élie Barnavi nhớ lại: “Tôi là thành viên của binh đoàn tiến vào Jerusalem. Đối với những người ngoan đạo, sự kiện đó là một phép mầu. Đó là bước đầu tiên để tiến về chủ nghĩa Messiah [xem thêm Wikipedia về chủ nghĩa Messiah]. Họ bỗng nhiên cảm thấy như đã nhận được một sứ mạng chính trị để hoàn tất mệnh lệnh của Chúa”. Cả hai vị tư lệnh quân đội, Yitzhak Rabin và Moshe Dayan, đều đến thăm Thành Tây ở Jerusalem. Sau 19 năm chia cắt thành Tây và Đông, toàn bộ Jerusalem giờ đây trở thành thống nhất dưới quyền kiểm soát của Israel. Moshe Dayan cùng binh sĩ của ông làm một cuộc đột kích chớp nhoáng để chiếm trọn Tây Jordan và cao nguyên Golan của Syria.

Phe Ả Rập bị bại trận hoàn toàn. Israel bành trướng lãnh thổ lên chín lần bao gồm cao nguyên Golan, Tây Jordan, Dải Gaza và bán đảo Sinai. Trong niềm hân hoan của chiến thắng vẻ vang thì ngạc nhiên thay, một số trí thức Israel thuộc xu hướng tự do bỗng trầm ngâm nghĩ về tương lai, như sử gia Anita Shapira: “Qua đêm, chúng tôi trở thành một cường quốc, nhưng đôi lúc tôi có nỗi băn khoăn rằng, sự hưng phấn phát sinh từ cuộc chiến sáu ngày cũng là một yếu tố vô cùng độc hại cho tâm lý dân tộc Israel, vì bỗng nhiên chúng tôi có cảm nhận rằng, chúng tôi đạt đến sức mạnh có thể làm tất cả mọi thứ chúng tôi muốn, và cảm giác đó sẽ dẫn đến những điều không hay ho gì. Với cuộc chiến sáu ngày, thắng lợi vinh quang nhất của chúng tôi cũng là điều bất hạnh lớn nhất trong lịch sử quốc gia Israel, vì sự chiếm đóng khu vực Tây Jordan và toàn bộ đất Thánh Jerusalem đã đánh thức dậy một bóng ma đã ngủ yên từ cả ngàn năm trước, đó là chủ nghĩa Messiah trong Do Thái giáo”. Hoặc sử gia Elie Barnavi cũng có cảm nhận tương tự như trên đã nói. Hai nhà sử học này muốn nói đến thành phần cực hữu với ý thức tôn giáo chính thống và chủ nghĩa quốc gia cực đoan. Nhân dịp này, thành phần đó xem hành động của họ như là sự hoàn thành một sứ mạng chính trị do Thượng Đế giao phó. Cho đến thế kỷ 21, thành phần tôn giáo cực đoan này dù còn thiểu số nhưng vẫn chi phối mạnh mẽ đến nền chính trị Israel. Hiện nay, thành phần này đã trở thành một bộ phận của nội các Benjamin Netanyahu.

Sau khi chiếm được toàn bộ Jerusalem, một bộ phận người Israel bỗng có một sự cuồng nhiệt tôn giáo. Một số người trong đó sau này trở thành những chính trị gia theo chủ nghĩa quốc gia cực đoan. Đối với họ, việc chiếm đóng thành cổ Jerusalem của tổ tiên ngày trước chính là ý nguyện của Chúa. Kể từ tháng ba 1968, những thành phần cực hữu tôn giáo, những người Zionist mang tư tưởng Messiah, dọn vào vùng Tây Jordan vừa chiếm được. Cả quốc gia Israel bỗng nhiên có cảm giác an toàn của tình trạng vượt trội về quân sự.

Sử gia Jenny Hestermann tóm tắt tâm lý quá trớn của người Israel: “’Chúng ta có thể đạt được mọi chuyện, chúng ta là một dân tộc hùng cường, và chúng ta có một nhà nước bất khả chiến bại’. Có thể họ hơi mù quáng trước vấn đề họ đang tạo ra bằng thái độ không trả lại tức khắc đất đai đã chiếm đóng, và thêm vấn đề với cuộc tấn công bất ngờ tiếp theo diễn ra trong ngày lễ Yom Kippur vào năm 1973, mà đó là một cuộc chiến tranh không có kết thúc tốt đẹp đối với người Israel”.

Vào đúng ngày lễ Yom Kippur quan trọng nhất của Do Thái giáo, liên quân Ai Cập và Syria bất ngờ tấn công Israel. Hai nước này muốn trả đũa cho vết ô nhục của cuộc chiến sáu ngày năm 1967. Nhưng lần này, Israel một lần nữa đẩy lùi liên quân Ai Cập – Syria, cho dù với những tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, cuộc tấn công Yom Kippur đã thay đổi tư duy của giới lãnh đạo. Sử gia Elie Barnavi nhận xét: “Nhưng dù sao, nhờ cuộc chiến này và những nguy cơ mà chúng tôi cảm nhận được, chúng tôi đã tìm cách hòa đàm với Ai Cập. Điều đó đã xoa dịu phần nào nỗi nhục nhã của họ sau khi chúng tôi đã thắng trận. Và đó là chuyện rất quan trọng”.

Ngày 26 tháng 3 năm 1979 đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại: Ai Cập và Israel ký hiệp ước hòa bình – với sự trung gian hòa giải của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. Đối với Israel, hòa ước đó chấm dứt sự đe dọa thường trực, đổi lại Ai Cập nhận lại bán đảo Sinai. Elie Barnavi kết luận: “Các quốc gia Ả Rập không còn là sự đe dọa an ninh. Chúng tôi đã có hòa bình với Ai Cập, với Jordan, với các quốc gia vùng vịnh, với Marocco v.v…Điều duy nhất còn lại kéo dài tới hôm nay, đó là hòa bình với người Palestine. Chúng tôi cần hòa bình với Palestine, và muốn đạt đến hòa bình với Palestine, chúng tôi phải chấm dứt sự chiếm đóng”. Elie Barnavi đại biểu cho nhiều người Israel yêu chuộng tự do và chọn một giải pháp hợp lý cho Palestine, đấy là ngưng xây dựng khu định cư mới và tiến hành giải pháp hai quốc gia. Nhưng họ phải đấu tranh gay go với chính quyền bảo thủ Bejamin Netanyahu gần 15 năm nay vẫn chưa đạt được mục tiêu.

Việc chiếm đóng Palestine và xây dựng trái phép các khu định cư vẫn được tiếp tục. Ngày hôm nay đã có 700.000 người Israel sinh sống ở vùng Tây Jordan của người Palestine. Xu hướng là còn tăng lên. Người Palestine chỉ có thể giương mắt nhìn một cách bất lực. Bà Suad Amiry: “Người Israel không chịu nhận thức rằng, thảm họa cho chúng tôi vẫn tiếp diễn. Thí dụ chúng tôi không thể đi ra ngoại quốc. Mỗi người Israel đều có một hoặc hai hộ chiếu. Họ có thể đi đến mọi nơi trên thế giới, thường là không cần visa. Chúng tôi vẫn chưa có quyền đó, và cứ thế kể từ 1948, chúng tôi không thể di chuyển đến bất kỳ nơi nào”.

Thêm vào đó, Israel còn xây thêm những bức tường chắn bao bọc biên giới Palestine. Họ cho rằng những bức tường cao 9 mét có thể ngăn chặn quân khủng bố đã giết hàng trăm người Israel trong thập niên 1990. Dù có những bức tường như thế, Israel vẫn đối diện với sự đe dọa của các nhóm khủng bố. Các cuộc tấn công vẫn không ngừng xảy ra, không riêng gì Hamas từ Dải Gaza, mà đồng thời ở vùng biên giới khác: Hisbollah ở phía Nam Libanon. Cả hai lực lượng cực đoan này đều có vũ khí hiện đại, hỏa tiễn và thường trực tấn công các thành phố Israel. Họ không những hoạt động một mình mà còn được hỗ trợ từ Cộng hòa Hồi giáo Iran, kẻ thù nguy hiểm nhất của Israel trong khu vực. Iran có một chương trình hợp tác vũ trang với Nga, đang thực hiện chương trình nghiên cứu vũ khí nguyên tử và có nhiều loại hỏa tiễn tầm xa. Dù đã có hòa ước với một số quốc gia láng giềng, Israel vẫn còn là một quốc gia bị thường trực đe dọa.

Sử gia Jenny Hesterman nhận xét: “Iran chắc chắn là mối đe dọa lớn nhất của Israel từ lúc Tổng thống Iran kêu gọi tiêu diệt Israel cách đây mấy thập niên. Điều đó đã được tranh luận lúc ấy thường xuyên trên truyền thông Israel, và ý nghĩ khá phổ biến là: Không sớm thì muộn chúng ta sẽ bị Iran tấn công”. 

Ngày hôm nay, rất nhiều người Israel nhận thức rằng, mối đe dọa lớn nhất không đến từ bên ngoài, mà chính phủ bảo thủ Netanyahu là mối đe dọa thường trực. Với đảng tôn giáo chính thống và cực hữu trong nội các hiện nay, chính phủ Netanyahu vẫn muốn tiến hành việc xây dựng khu định cư mới ở Tây Jordan, đồng thời muốn tước quyền kiểm soát của tòa án tối cao lên các quyết định của quốc hội. Điều đó đã dẫn đến nhiều cuộc biểu tình khắp nơi, đẩy hàng trăm ngàn người xuống đường phản đối.

Sử gia Anita Shapira nhận xét về tình hình hiện nay: “Tôi rất lo lắng cho tình hình nội chính hiện nay. Chúng tôi đang chứng kiến âm mưu của chính phủ trong việc thay đổi những nguyên lý cơ bản của nền dân chủ Israel. Chính vì mục tiêu chống lại điều nguy hiểm đó mà một phong trào dân sự rất mạnh mẽ đang được tổ chức lại với nhau”. Chỉ riêng tại Tel Aviv đã có ít nhất 200.000 người mỗi tuần xuống đường đòi chính phủ rút lại quyết định bảo thủ và nguy hiểm của chính phủ Netanyahu, chống lại âm mưu thay đổi hiến pháp của chính phủ hữu khuynh cực đoan hiện nay.

Sử gia Elie Barnavi phát biểu rất trầm tư: “Nếu tôi nói với Ông Bà tôi thuở đó rằng, một quốc gia Do Thái sẽ được thành lập, và chúng tôi sẽ trở thành cường quốc, chắc hẳn họ không thể tin tôi. Nhưng mặt khác, sau khi lập quốc, chúng tôi đã thả bóng ma tôn giáo thoát ra khỏi cổ chai. Vì trong thực tế, chúng tôi đã thả lỏng cho những thành phần tôn giáo cực đoan tha hồ hoành hành. Và điều đó đặt thêm một dấu hỏi lớn về tương lai của dân tộc Israel. Tôi tin rằng, Israel vẫn sẽ tồn tại. Nhưng một quốc gia Israel như thế nào trong tương lai, để cho những người như tôi có thể sống được? Đó còn là một câu hỏi lớn”.

Israel, quê hương hiện nay của 7 triệu người Do Thái. Miền đất hứa cho giáo dân. Nhưng vẫn luôn còn là một quốc gia bị đe dọa, ngay cả sau một thời gian rất dài! Chúng ta nghĩ thế nào? Liệu một ngày nào đó, Israel có thể hưởng một đời sống yên lành hay không?

./.

Tôn Thất Thông, tháng 10.2023

Chọn lọc và tóm tắt từ phóng sự Israel – Gelobtes Land, bedrohter Staat (Israel – Miền đất hứa, quốc gia bị đe dọa) của kênh tài liệu lịch sử Terra X History thuộc đài truyền hình ZDF. Viết cốt truyện: Winfried Laasch, phát ngôn: Isaak Dentler. Ngoài công trình biên soạn công phu của ban biên tập Terra X History, còn có nhiều học giả tham gia dưới hình thức phỏng vấn, tượng trưng là bốn sử gia ở hình trên. Họ là những học giả có uy tín trên thế giới và là những chuyên gia về Palestine và Israel (xem các links liên quan). Về mặt chất lượng sử liệu, quý độc giả có thể yên tâm trích dẫn.

Các bài liên quan về nguyên nhân các xung đột ở Trung Đông:

Phần 1: Hiệp ước Sykes-Picot vẽ lại bản đồ Trung Đông
Phần 2
Hiệp ước Sykes-Picot và bi kịch Palestine
Phần 3Hiệp ước Sykes-Picot và 100 năm hỗn loạn ở Trung Đông
Phần 4Hiệp ước Sykes-Picot và thảm họa người Kurds
Có thể tải PDF file của toàn bộ 4 phần ở đây

Trở về trang chủ

Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông