Trang chủ » KHAI SÁNG LÀ GÌ?

KHAI SÁNG LÀ GÌ?

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Tác giả: Tôn Thất Thông

Khi thiên nhiên bóc lớp vỏ cứng để làm hiển lộ hạt mầm đã được săn sóc hết sức nâng niu, hạt mầm của xu hướng về lối tư duy tự do, thì dần dần nó sẽ trở lại tác động đến cảm xúc của toàn dân (nhờ thế mà họ sẽ từ từ trở nên có khả năng đạt đến sự tự do để hành động)[1].
(Triết gia Immanuel Kant)

***

Khi đi tìm một định nghĩa cho “khai sáng”, các sử gia thường nhắc đến bài tiểu luận trứ danh của Immanuel Kant – Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì? – được phổ biến trên Nguyệt san Bá Linh[2] tháng 11 năm 1784. Bài tiểu luận dài không quá mười trang, và cho dù chưa nói hết mọi tính chất của tinh thần khai sáng, cũng như có một vài lập luận của Kant cần được tranh cãi, nhưng tiểu luận này đã nói lên được các tính chất cốt lõi có giá trị chung nhất so với định nghĩa của những tác giả khác. Vì thế, cũng là điều có ích khi dừng lại ở đây để phân tích quan điểm của Kant về khai sáng, trước khi đi sâu lý giải những biến cố trong thời đại khai sáng.

Trước đó một năm, vào tháng 9.1783, trên nguyệt san xuất hiện bài viết của một tác giả vô danh. Gọi là vô danh, nhưng người ta đoán rằng, tác giả bài viết đó chính là Johann Erich Biester, giám đốc nhà xuất bản Nguyệt san Bá Linh. Biester viết bài tiểu luận có tính cách khiêu khích, nhân danh một con người khai sáng chống lại truyền thống cổ hủ của Giáo hội Kitô, vì theo truyền thống đó, khi mọi người muốn tiến đến hôn nhân phải làm lễ ở nhà thờ mới được công nhận là vợ chồng.

Vị mục sư Tin lành Johann Friedrich Zöllner, cũng là nhân vật có tiếng trong giới học giả ở Berlin, trả lời tức khắc với tinh thần khiêu khích không kém. Nhưng điều để bàn luận ở đây về ý nghĩa của khai sáng không phải là nội dung bài viết của mục sư Zöllner, mà là một cước chú của ông với câu hỏi: “Khai sáng là gì? So với câu hỏi chân lý là gì, khai sáng cũng có tầm quan trọng không kém và cần được trả lời minh bạch, trước khi khởi đầu sự khai sáng! Nhưng tôi chưa thấy câu hỏi đó được trả lời bất kỳ ở đâu![3]”.

Câu hỏi của mục sư Zöllner đã mở màn cho một cuộc tranh luận sống động trên nhiều tờ báo đương thời. Có thể nói rằng, cuộc tranh luận rộng rãi này đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử triết học Đức và châu Âu. Triết gia Moses Mendelssohn tham gia tranh luận với bài viết “Về câu hỏi: Khai sáng là gì?[4]” đăng trên Nguyệt san Bá Linh tháng 9.1784. Tiếp đó, hai tháng sau là tiểu luận của Immanuel Kant, nhưng ông phát biểu rằng, trước đó ông chưa đọc bài viết của Mendelssohn.

Đúng 200 năm sau, Michel Foucault, triết gia phê phán trào lưu khai sáng – với tinh thần xây dựng – bắt đầu một loạt bài giảng ở Học viện Pháp quốc (Collège de France) về chủ đề này, trong đó có một buổi giảng mà Foucault có dụng ý đặt tựa đề “Khai sáng là gì?”, tức là tựa đề giống như Kant và các học giả Berlin đã dùng trước đó 200 năm, vì theo Foucault, đó là một câu hỏi vô cùng quan trọng cho triết học.

[Bài tiểu luận của Kant] “dù không đồ sộ lắm, nhưng trong đó hàm chứa một câu hỏi căn cơ trong lịch sử tư tưởng, mà dù nền triết học hiện đại không lý giải được, nhưng nó vẫn tiếp tục bám theo dai dẳng. Suốt 200 năm qua, câu hỏi đó cứ mãi xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Từ Hegel tới Nietzsche hay Max Weber, cho đến cả Max Horkheimer và Habermas, chưa từng có một triết thuyết nào mà không đối diện với câu hỏi này, dù trực tiếp hay gián tiếp. […] Nếu bây giờ, có ai hỏi ‘Triết học hiện đại là gì?’ thì có lẽ chúng ta sẽ trả lời, đó là nền triết học đang thử tìm cách lý giải một câu hỏi đã được đặt ra không cẩn thận lắm cách đây 200 năm: ‘Khai sáng là gì?[5]”.

Như thế, chúng ta cũng thấy tiểu luận của Kant và câu hỏi căn cơ của ông có tầm quan trọng như thế nào trong lịch sử triết học phương Tây. Mặc dù Foucault có nhiều ý kiến phê phán bài tiểu luận của Kant, nhưng bài giảng của ông quanh câu hỏi “Khai sáng là gì” cũng làm sáng tỏ thêm quan điểm của Kant về khai sáng. 

Immanuel Kant (trái, 1724-1804), tác giả: J. L. Raab;
Moses Mendelssohn (phải, 1729-1786), tác giả: Anton Graff.

Bài tiểu luận của Kant đã trở thành một tư liệu phổ thông khắp nước Đức. Ai có sáu xu tiền thì có thể mua nó bất kỳ ở đâu, trong các tiệm sách thành phố hoặc quầy bưu điện. Bài tiểu luận đó cũng là tư liệu về lịch sử triết học trong mỗi trường trung học, để cho các học sinh năm cuối tham khảo. Trước đó, chưa từng có một tiểu luận nào có tác dụng mạnh mẽ và lâu dài suốt nhiều thập niên như thế. Trước hết, chúng ta xem xét vài điểm chính trong bài tiểu luận của Kant[6].

Kant bắt đầu bài tiểu luận bằng một câu nói đánh trúng vào cốt lõi của vấn đề, câu nói đã trở thành bất tử trong lịch sử của trào lưu khai sáng:

Khai sáng là lối thoát của con người ra khỏi tình trạng chưa trưởng thành[7] do lỗi lầm của chính mình gây ra. Chưa trưởng thành là sự bất lực trong việc sử dụng trí tuệ của mình khi không có ai dẫn dắt. Tình trạng chưa trưởng thành là do lỗi lầm của chính mình, khi nguyên nhân của nó không bắt nguồn từ sự thiếu trí tuệ, mà xuất phát từ sự thiếu tính cương quyết và thiếu lòng dũng cảm để phục vụ cho trí tuệ của chính mình mà không cần ai dẫn dắt. Sapere aude[8]! Hãy có can đảm sử dụng trí tuệ của chính mình. Đó là phương châm của khai sáng”[9].

Khi đề cập đến khẩu hiệu Sapere Aude (Hãy dám biết), Foucault làm hiển lộ ý tứ đằng sau của Kant như sau: “Khai sáng được hiểu như là một quá trình phát triển, mà trong đó, con người tham dự vào tập thể [một cách thụ động], đồng thời cũng làm một hành động dũng cảm cần thiết. Khi con người tham dự vào quá trình đó, họ có thể thực sự trở thành tác nhân, tức là chủ thể hành động. Và quá trình này diễn ra trong bối cảnh là, con người trong đó tự quyết định sẽ tình nguyện làm một tác nhân hành động[10]”. Và Foucault nói rõ hơn: “Điều chắc chắn, khai sáng được xác định bởi sự chuyển hóa mối quan hệ hiện hữu giữa ý chí, quyền uy và việc sử dụng lý tính”.

Theo Kant, đấy là sự đòi hỏi cương quyết rằng, con người cần suy nghĩ theo lý tính chứ không phải lập lại chân lý và xác tín có sẵn do bên ngoài đặt ra. Đó cũng là sự chuyển động của tư tưởng một cách độc lập để đạt đến sự hiểu biết do chính mình khám phá. Nói cách khác, con người cần tự suy nghĩ để tìm thấy chân lý, chứ không phải thụ động tiếp thu tri thức có sẵn[11], lại càng không phải thụ động định hướng suy nghĩ của mình theo một khuôn mẫu do người khác đặt ra, điều mà chúng ta thường gặp trong xã hội trung cổ dưới áp lực của Giáo hội và Vương triều, hoặc trong các quốc gia toàn trị ngày nay.

Mặc dù sau đây chúng ta còn tiếp tục sử dụng thuật ngữ “chưa trưởng thành” hoặc “vị thành niên” của Kant, nhưng thiết tưởng cũng nên làm một cước chú ở đây về diễn ngôn của Foucault. Theo ông, tình trạng “chưa trưởng thành” như Kant nói, thực chất là tình trạng “ấu trĩ” của con người, vì “chúng ta chịu thuần phục quyền uy, sẵn sàng để những người có quyền uy dẫn dắt trong những lĩnh vực mà, sự tự do sử dụng lý tính của chúng ta là điều cần thiết[12]”.

Phương châm của Kant là nhắm tới việc chống lại mệnh lệnh từ các quyền lực bên ngoài không đặt trên nền tảng lý tính hoặc những “nguyên lý tổng quát của việc sử dụng lý tính”. Nó cũng chống luôn cả mệnh lệnh của chính bản thân, nếu mệnh lệnh ấy cũng có tinh thần giống như trên[13].

Theo Kant, nguyên nhân đưa con người đến tình trạng “chưa trưởng thành” là cơ chế bảo hộ của các cơ cấu quyền lực trong xã hội. Trong bối cảnh lịch sử thế kỷ 18 tại Phổ, quyền lực mạnh nhất xuất phát từ tôn giáo:

“Tôi đã đưa các vấn đề liên quan đến tôn giáothành điểm chính của việc khai sáng, tức là lối thoát của con người ra khỏi tình trạng chưa trưởng thành do chính mình gây ra”.

Trong ý niệm tôn giáo, Kant tỏ ra khinh miệt những giáo sĩ giảng đạo trong nhà thờ, những người đã trở thành công bộc của Giáo hội. Họ đã đánh mất hết tự do bản thân, và thực tế cũng không thể có tự do, vì họ là những người phải phục tòng tuyệt đối để hoàn tất các mệnh lệnh xa lạ, tuân theo sự sai khiến của một chủ thể xa lạ ở cấp cao hơn. Đối với giáo dân thuần phục, sự khinh miệt của Kant cũng không kém phần chua chát. Thay vì gọi họ là “đàn cừu” như Thánh Kinh vẫn thường dùng, Kant gọi họ là “đám lao nhao” sẵn sàng đặt mình dưới sự chăn dắt, bảo hộ của các công bộc nhà thờ, và họ cũng không hề quan tâm đến tự do của bản thân.

Nếu so sánh các chế độ chuyên chế hiện nay trên thế giới với Giáo hội Kitô suốt hơn một ngàn năm từ thời trung cổ kéo dài đến thời cận đại sơ kỳ, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy nhiều điểm tương đồng. Thử nêu lên một thí dụ gần gũi trong thời đại chúng ta: Chính sách độc quyền về văn hóa và tư tưởng hiện nay ở các nước chuyên chế có nội dung không khác gì mấy so với chính sách độc quyền triết học của Giáo hội kể từ lúc Kitô trở thành quốc giáo năm 380 và đóng cửa Viện hàn lâm Plato năm 529, chấm dứt việc nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại trong Đế chế La Mã. Mãi đến lúc Đế chế sụp đổ năm 1453, nền văn minh Hy Lạp mới từng bước được phục hồi và tiếp tục phát triển ở các nước châu Âu. Nền văn minh Hy Lạp rực rỡ bị chôn vùi hơn 1000 năm!

Gắn liền với sự độc quyền tư tưởng, chính sách độc quyền xuất bản và chế độ kiểm duyệt khe khắt ngày nay xem ra còn hà khắc hơn cả “Danh mục các sách cấm lưu hành” (Index Romanus) của Giáo hội Kitô La Mã còn tồn tại cho đến thế kỷ 19, điều đã cản trở việc phổ biến tri thức nhân loại đến công chúng chậm thêm vài thế kỷ[14].

Cho nên, nếu xem khai sáng là tinh thần vươn đến tiến bộ, thì hành động đòi hỏi bãi bỏ chính sách độc quyền về văn hóa và tư tưởng là một trong những bước đi cần thiết để thoát ra khỏi tình trạng chưa trưởng thành theo tinh thần của Kant. Văn minh châu Âu chỉ thực sự thăng hoa sau khi họ vượt qua được những gò bó về tư tưởng do chế độ độc quyền triết học của Giáo hội Kitô tạo ra suốt  cả ngàn năm trước. Nói đúng ra, Giáo hội không hề có ý định hủy bỏ chính sách củ mình, mà chính sự đấu tranh không khoan nhượng của học giả khai sáng đã từng bước đẩy lùi chính sách độc quyền về tư tưởng mà Vương triều, nhất là Giáo hội đã thiết lập cả ngàn năm trước.

Để phản bác lại những lề luật khắt khe với mục đích kiểm soát tư tưởng người dân, để rồi cấm đoán những hành động và suy nghĩ đi ngược với ý muốn của nhà cầm quyền và Giáo hội, Kant giải thích một cách đơn giản rằng,

“Để khai sáng con người, chúng ta không đòi hỏi gì hơn là tự do, thứ tự do ít tai hại nhất, đó là sự tự do được sử dụng lý tính của mình ở mọi nơi trong đời sống công cộng […] Việc sử dụng công khai lý tính của mỗi người phải được tự do bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, và chỉ có sự tự do đó mới có thể mang lại cho con người tình trạng được khai sáng”.

Sự kìm kẹp gò bó tư tưởng bằng những quy định ngặt nghèo suốt một thời gian dài làm cho con người trở thành thụ động, sống hai mặt và thường trực sợ hãi. Tình trạng chưa trưởng thành, hay nói cách khác là không dám phát biểu tư tưởng và trí tuệ của mình cho công chúng biết, dần dần trở thành một bản tính tự nhiên và họ vẫn luôn luôn có lý do để biện hộ cho bản tính tự nhiên đó. Vì thế, tự khai sáng cho chính mình là một việc làm rất khó khăn cho từng người riêng lẻ. Tuy nhiên, Kant rất hy vọng vào việc tự khai sáng của đám đông công chúng khi họ được trao quyền tự do, bởi vì:

“Ở công chúng đó luôn luôn có vài người biết suy nghĩ độc lập, ngay cả trong số những người có chức năng bảo hộ [đang có quyền lực], những người sẵn sàng tự tay vứt bỏ cái gông cùm chưa trưởng thành. Những người biết suy nghĩ độc lập sẽ quảng bá cho người chung quanh rằng, tinh thần biết đánh giá hợp lý về giá trị thực sự của từng người nằm ở khả năng độc lập suy nghĩ. Điều đặc biệt ở đây là: công chúng vốn dĩ trước đây bị những người bảo hộ ép đặt ở trong gông cùm, giờ đây chính công chúng sẽ đặt những người bảo hộ vào gông cùm, nếu những người này không có khả năng tự khai sáng. […] Điều cần thiết để đạt đến sự khai sáng này không gì khác hơn là tự do, và là quyền tự do nguyên vẹn nhất trong tất cả các tự do, là quyền được công khai sử dụng lý tínhcủa chính mình”.

Như vậy, Kant đặt hết hy vọng vào “vài người trong công chúng biết suy nghĩ độc lập”, tức là giới học giả thời đại hay chúng ta gọi là giới trí thức theo ngôn ngữ ngày nay. Giới học giả tự khai sáng là nhân tố quan trọng hàng đầu để xây dựng một xã hội tiến bộ, tất nhiên với tiền đề là họ phải dấn thân để xây dựng tự do cho bản thân mình và cho xã hội. Và nói cho cùng, quyền tự do “công khai sử dụng lý tính của chính mình” hoàn toàn không làm hại đến xã hội, nếu quyền tự do đó được thực hành một cách ôn hòa, không sử dụng bạo lực.

Ở đây, Kant đề cao vai trò của học giả, tức là những người độc lập có trí tuệ đang thi hành chức vụ công dân[15]. Họ có thể đang giữ chức vụ nhà nước và vì thế không được phép phát biểu những điều làm cản trở nhiệm vụ hiện tại của họ. Nhưng cũng chính người đó trong đời sống riêng và với vai trò một học giả có tinh thần khai sáng, vẫn có thể làm, nên làm và phải làm tròn chức vụ công dân, tức là sử dụng và quảng bá trí tuệ của mình để phục vụ xã hội, thí dụ viết sách, báo, văn thơ kịch nghệ, diễn thuyết công cộng v.v… Tất nhiên, ở đây người học giả khai sáng phải có lòng dũng cảm, sẵn sàng sử dụng quyền tự do phát biểu trước công cộng những điều mình cho là lẽ phải, dù có bị chính quyền hay Giáo hội đàn áp, ngăn cấm.

Nếu giới học giả không tự khai sáng, không có can đảm sử dụng trí tuệ của chính mình, không dám bày tỏ tư tưởng và trí tuệ của mình cho đám đông công chúng biết, xã hội sẽ mãi mãi chìm đắm trong tối tăm lạc hậu. Trong trường hợp đó, giới học giả tinh hoa cũng chỉ là công cụ của quyền lực, tự mình áp đặt gông cùm lên trí tuệ của chính mình, hay nói cách khác, là làm nô lệ tinh thần cho chính mình. Đó là trường hợp xã hội châu Âu suốt cả một ngàn năm trước khi được khai sáng. Về điều này, Kant tuyên bố đanh thép:

“Một người nào đó có thể trì hoãn việc khai sáng vì những lý do riêng tư, và cũng chỉ trong một thời gian ngắn cần thiết cho việc trau dồi trí tuệ; nhưng triệt tiêu việc khai sáng, dù cho chính bản thân hoặc hơn nữa cho hậu duệ về sau, là sự vi phạm và chà đạp lên quyền thiêng liêng của loài người”.

Đến đây, để tạm chấm dứt phần diễn dịch tư tưởng của Kant, chúng ta trích lại nhận xét của Kant về thời đại của ông ở cuối thế kỷ 18:

“Nếu bây giờ có người hỏi: có phải chúng ta đang sống trong thời đại đã được khai sáng? Câu trả lời sẽ là: Không, nhưng quả thật chúng ta sống trong thời đại đang khai sáng. […] Bây giờ, cánh đồng đã được khai hoang cho con người tự do canh tác và trên con đường thoát ly ra khỏi tình trạng chưa trưởng thành do chính mình gây ra, những chướng ngại cản trở sự khai sáng càng ngày càng ít hơn. Về điều đó, chúng ta thấy những dấu hiệu thật rõ rệt. Từ góc độ đó, chúng ta có thể kết luận rằng, thời đại này chính là thời đại của sự khai sáng”.

Trên đây là định nghĩa của Kant về khai sáng, tất nhiên chỉ nói được một khía cạnh của vấn đế, dù đó là khía cạnh rất quan trọng. Kant chưa nói tới quá trình phát triển từ sự quảng bá tri thức để tiến đến sự thành hình trào lưu tư tưởng chính trị ra công chúng rộng rãi, vốn dĩ là đặc tính rất quan trọng của trào lưu khai sáng sẽ dẫn đến cách mạng. Ngoài ra trong bài tiểu luận, Kant đưa ra giả thuyết rằng,

“Công chúng chỉ có thể được khai sáng dần dần. Một cuộc cách mạng có lẽ sẽ làm sụp đổ một hệ thống chuyên chế độc tài và sự áp bức từ những kẻ hám lợi và tham quyền, nhưng sẽ không bao giờ mang lại sự chuyển hóa thực sự về cách suy nghĩ của con người”.

Giả thuyết này của Kant cần được tiếp tục tranh luận.

Tuy nhiên trong tinh thần xem “tri thức là sức mạnh[16]” của Francis Bacon, phương châm nói trên của Kant có thể xem là một biểu tượng, một ngọn hải đăng để hướng tới khi đi tìm định nghĩa cho khai sáng. Kể từ lúc tiểu luận này được phổ biến, tư tưởng của Kant về khai sáng đã phủ bóng che mờ những gì được phát biểu trước đó, và ông trở thành nhân vật không thể bị bỏ qua trong những cuộc tranh luận về sau. Trong thời đại đó, người ta có thể tìm thấy phương châm của Kant về khai sáng trong nhiều sách giáo khoa. Qua bài tiểu luận, chúng ta cũng có thể nhận dạng được lộ trình mà Kante vạch ra để tiến đến một xã hội tiến bộ:

Thứ nhất, mỗi người tự khai sáng cho chính mình, trau dồi trí tuệ bằng những tri thức tiến bộ trong tinh thần nâng cao phẩm hạnh và hướng tới lẽ phải. Ở đây, Kant trước hết nhắm tới giới tinh hoa có năng lực lý tính, đòi hỏi họ cần sớm nhận thức được những bất cập trong xã hội và vấn nạn của con người. Chừng mực nào đó, Kant muốn khiêu khích giới học giả đương thời đang còn thụ động và sợ hãi, một lối nhìn tương tự như Georg Christoph Lichtenberg trước đó: „Người ta nói nhiều về khai minh và ước mơ được thấy nhiều ánh sáng. Lạy Chúa, nhiều ánh sáng thì có ích gì, khi người ta đã mù hoặc không mù nhưng cố ý nhắm mắt lại[17]“.

Thứ hai, những người này cần có quyết tâm và dũng cảm sử dụng, quảng bá những tri thức đó cho đám đông, bất chấp sự cấm đoán, đe dọa, đàn áp của các thế lực bảo hộ. Ở trong bất kỳ chức vụ xã hội nào, Kant kêu gọi những người này phải biết thi hành nhiệm vụ công dân, sử dụng mọi phương tiện để tiến hành cuộc vận động khai sáng cho đám đông trong xã hội. Ông kêu gọi các học giả thức thời cần vứt bỏ gông cùm mà chính trị, tôn giáo và các định chế xã hội áp đặt. Con người cần ngẩng cao đầu bằng một thái độ hiên ngang và quyết đoán, tự mình xây dựng trí tuệ, đòi hỏi quyền tự trị về sáng kiến và tư tưởng, giải phóng tinh thần ra khỏi khuôn viên của thành kiến, quyền uy và truyền thống[18].

Thứ ba, từ những thành quả kể trên, công cuộc chuyển hóa xã hội trong tinh thần tiến tới lẽ phải, theo Kant sẽ đến từ từ chứ không cần một cuộc cách mạng mang tính cách lật đổ, vì như thế chỉ làm xã hội xáo trộn chứ mục đích khai sáng con người trong xã hội vẫn không đạt được. Thực ra, nếu so sánh các biến cố chính trị trong thế kỷ 20, chúng ta thấy rằng, cuộc cách mạng vẫn có thể đến, cuộc lật đổ vẫn có thể xảy ra mà không làm xáo trộn xã hội, khi những biến cố đó xảy ra trong tinh thần ôn hòa, bất bạo động và sau một quá trình vận động khai sáng cho các thành viên trong xã hội.

Lộ trình của Kant không hề nói đến quá trình làm sao để chuyển hóa tư tưởng và sáng kiến thành biến cố cụ thể, những con người hành động cụ thể, những định chế mới và cấu trúc xã hội tiến bộ. Tuy nhiên, lời kêu gọi “hãy có can đảm sử dụng trí tuệ của chính mình” dù chỉ là bước đầu, nhưng là một hiệu lệnh có sức mạnh lay chuyển xã hội. Cách mạng Mỹ và Pháp cũng xảy ra trong tinh thần đó như lời tiên tri của Voltaire: “Khi một quốc gia bắt đầu biết suy nghĩ, không một lực lượng nào có thể ngăn cản được[19]”.

Với lộ trình khai sáng mà Kant diễn giải, giới học giả dấn thân đã tự tạo cho mình một phong cách sống mới, độc lập về tư duy và dũng cảm trong hành động. “Trong thế kỷ khai sáng, giới học giả châu Âu làm sống dậy một cảm nhận mới mẻ về cuộc sống. Họ trải nghiệm một cảm giác tuyệt vời về sức mạnh đối với thiên nhiên và đối với chính mình. […] Cho đến lúc đó, nỗi sợ hãi sự thay đổi gần như là tình trạng phổ biến, giờ đây bị đẩy lùi và nhường chỗ cho sự sợ hãi về tình trạng giẫm chân tại chỗ. Thuật ngữ canh tân, vốn dĩ trước đây được hiểu là lạm dụng, giờ đây trở thành một từ ngữ biểu lộ sự ca ngợi. […] Dường như ít có ai nghi ngờ rằng, cuộc đấu tranh để sinh tồn chống lại thiên nhiên và sự cân bằng quyền lực trong xã hội đã dần dần chuyển lợi thế nghiêng về con người cụ thể[20]”.

Trong cuộc chuyển hóa đó, các triết gia đóng một vai trò chiến lược. Họ nhận lãnh trách nhiệm sáng tạo và truyền bá các khái niệm căn bản về đạo đức, luân lý, chính trị, xã hội, thẩm mỹ … trong tinh thần phục vụ cho tự do, khuyến khích mọi người tham gia hành động thực tiễn, chứ không chỉ là hạn chế và ngăn ngừa tình trạng hỗn loạn.   

Nói một cách tổng quát, khai sáng trong thế kỷ 18 là một trào lưu cải cách về tư tưởng và xã hội. Với sự rõ ràng minh bạch về tư duy, trào lưu này không những hứa hẹn nhiều tiến bộ về mặt tư tưởng, mà còn có thể cải thiện mối quan hệ giữa nhiều thành tố khác nhau trong xã hội[21].

***

Nói tóm lại, Kant có một định nghĩa khá bao quát và đưa ra một lộ trình để đi đến sự khai sáng. Trong mỗi quốc gia ngày nay với những tính chất đặc thù của mình, thanh niên trí thức sẽ có những lộ trình tối ưu riêng, nhưng phác thảo của Kant vẫn có tính phổ quát có thể tham khảo được. Ấy là, trước hết, mỗi người cần tự khai sáng cho chính mình và xem tình trạng khai sáng cá nhân là lý tưởng của cuộc sống một người trí thức. Thứ hai, đòi hỏi các thế lực bảo hộ tôn trọng quyền tự do được sử dụng lý tính của mình trong mọi lúc, ở mọi nơi. Tất nhiên, tự do ấy dù là quyền tự nhiên, nhưng không ai ban phát cho mình, mà phải đòi hỏi, đấu tranh mới đạt được. Và thứ ba, song song với bước đi ở trên, vận động mọi người cùng tham gia vào tiến trình khai sáng xã hội. Đấy không chỉ là nghĩa vụ đạo đức, mà nó sẽ tạo thêm sức mạnh cho mọi người để bước đi thứ hai ở trên có thể đạt đến thành công.  

Ở những nước độc tài chuyên chế, đó là một lộ trình cam go, nhưng thanh niên trí thức cần xem đó là nghĩa vụ nhân văn cao quý của mình để đưa xã hội đến tiến bộ. 

Tôn Thất Thông, tháng 4/2024

Trở về trang chủ

Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông

Xem bài viết này trên video Youtube:

Tài liệu tham khảo

  1. Bahr, Ehrhard sưu tập: Was ist Aufklärung? Thesen und Definition. ISBN 315-009714-2. (Khai sáng là gì? Luận thuyết và định nghĩa).

  2. Foucault, Michel: Was ist Aufklärung? Lấy từ Ethos der Moderne trang 35-54. Eva Erdmann và Rainer Forst dịch từ bản gốc tiếng Pháp: Qu’est ce que les Lumières? (Khai sáng là gì?)

  3. Gay, Peter: The enlightenment: An Interpretation. The science of freedom. ISBN 0-393-00875-4. (Dẫn luận về khai sáng – Khoa học của tự do).  

  4. Hampson, Norman: The Enlightenment – An evaluation of its assumptions, attitudes and values. ISBN 0-14-013745-9.  (Khai sáng – Đánh giá những giả thuyết, quan điểm và giá trị).

  5. Höffe, Otfried (I) chủ biên và nhiều tác giả: Klassiker der Philosophie I. ISBN 3-406-08048-0.  (Những triết gia kinh điển, Tập I).

  6. Horkheimer, Max và Adorno, Theodor W.: Dialektik der Aufklärung. ISBN 3-10-031829-3. (Biện chứng pháp của khai sáng).

  7. Im Hof, Ulrich: Das Europa der Aufklärung. ISBN 3-406-37091-8.  (Châu Âu trong thời đại khai sáng).

  8. Kant, Immanuel: Beantwortung der Frage: Was ist Aufklärung? Nguyệt san Berlinische Monatsschrift tháng 12.1784, trang 481 – 494. (Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?).

  9. Martus, Steffen: Aufklärung – Das deutsche 18. Jahrhundert. ISBN 978-3-499-62767-5.  (Khai sáng – Nước Đức trong thế kỷ 18).

  10. Mendelssohn, Moses: Über die Frage: Was heißt aufklären? Nguyệt san Berlinische Monatsschrift tháng 09.1784. (Về câu hỏi: Khai sáng có nghĩa là gì?)

  11. Metzler Verlag chủ biên và nhiều tác giả: Philosophen. ISBN 3-476-02026-6.  (Những triết gia).

  12. Schneiders, Werner (2): Zeitalter der Aufklärung. ISBN 3-406-44796-1. (Thời đại khai sáng).

Ghi chú


[1] Xem I. Kant: Beantwortung der Frage: Was ist Aufklärung?

[2] Nguyệt san Berlin (Berlinische Monatsschrift) là cơ quan ngôn luận được thành lập năm 1783. Nguyệt san này quy tụ những tác giả quan trọng nhất trong thời đại đó, nổi tiếng về triết học và chính trị. Họ thành lập Câu lạc bộ ngày thứ tư (Mittwochgesellschaft), nơi họ gặp nhau ngày thứ tư trong tuần và mỗi người có quyền nêu ra một đề tài để trình bày và tranh luận với nhau.

[3] E. Bahr, trang 3.

[4] E. Bahr, trang 3-8 (nguyên văn tiểu luận của Moses Mendelssohn).

[5] Xem M. Foucault, Qu’est-ce que les Lumières?

[6] Những chữ viết nghiêng trong các câu trích là những chỗ I. Kant cố ý làm nổi bật để nhấn mạnh ý của tác giả.

[7] Kant gọi một cách lịch sự là „tình trạng chưa trưởng thành“, nhưng nếu diễn đạt thẳng thừng, như Foucault diễn dịch, thì chúng ta có thể gọi đó là „tình trạng ấu trĩ“.

[8] Sapere aude tiếng La-tinh có xuất xứ từ thi sĩ Horaz (65 – 8 trước TC) thời cổ đại. Sapere = khôn ngoan, tri thức; aude = dám làm, can đảm. Sapere aude tạm dịch là „Hãy dám biết – Dare to be wise“.

[9] Xem I. Kant – Beantwortung der Frage: Was ist Aufklärung?

[10] Xem M. Foucault, Qu’est-ce que les Lumières?

[11] M. Hofmann, trang 18.

[12] Xem M. Foucault, Qu’est-ce que les Lumières?

[13] Xem Jürgen Mittelstrass trong J. Schmidt, trang 343.

[14] Thí dụ, „Về sự chuyển động vòng của các hành tinh“ của Nicolaus Copernicus, tác phẩm đột phá của ngành thiên văn học còn có giá trị cho đến hôm nay, đã bị Giáo hội Kitô cấm lưu hành từ năm 1616 đến 1822, chẳng qua vì nghiên cứu khoa học của Copernicus đưa ra kết quả với thuyết „nhật tâm“ khác với giáo lý Cơ Đốc.

[15] Bürgerliche Posten, theo thuật ngữ của Kant.

[16] E.P. Fischer, trang 86.

[17] S. Martus, trang 16 (trích từ Toàn tập Lichtenberg, tập I, trang 918).

[18] S. Martus, trang 13.

[19] Will Durant – Voltaire, sự xán lạn của nước Pháp (trong Minh Anh & Vi Yên, trang 215 – Bản dịch của Trí Hải – Bửu Đính).

[20] Xem P. Gay trang 3.

[21] Xem W. Schneiders (2), trang 11.