Trang chủ » LUẬT KHOA HỌC CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN

LUẬT KHOA HỌC CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Tác giả: Nguyễn Hữu Đổng

Luật khoa học chính trị phát triển được nhiều người quan tâm nghiên cứu về các mặt luật, khoa học chính trị và phát triển.Tuy nhiên, khi lý giải, người nghiên cứu chỉ tập trung phân tích tính chất hình thức bên ngoài, bản chất nội dung bên trong, chứ không đi sâu làm rõ thực chất nguyên lý toàn diện ở giữa. Bằng tư duy thật, tác giả bài viết làm sáng tỏ thực chất, hạn chế hiểu biết khái niệm này, đề xuất giải pháp nhận thức đúng đắn, xây dựng mô hình luật chính trị phát triển.

Thực chất, định nghĩa luật khoa học chính trị phát triển

Để nhận thức đúng đắn luật khoa học chính trị phát triển (the law of political science develops), trước hết cần phải làm rõ thuật ngữ “luật”, khái niệm “khoa học chính trị” và “phát triển”.

Luật hay pháp luật (law) biểu hiện mối liên hệ về chất giữa các mặt chủ yếu của nó như sau: bản chất nội dung công chức, viên chức trong cơ quan hành pháp (chính phủ) của quốc gia đề ra phương pháp thực hiện các mục tiêu chính sách chưa phát triển; tính chất hình thức đại biểu dân cử trong cơ quan lập pháp (quốc hội hay nghị viện) của quốc gia xây dựng, ban hành các mục tiêu chính sách không phát triển; thực chất nguyên lý đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, công tố (kiểm sát) viên trong cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp (toà án, viện công tố hay viện kiểm sát) của quốc gia đề ra phương pháp, xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển. Tức là, luật biểu hiện cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia đề ra phương pháp, xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển.

Khoa học chính trị bao hàm các khái niệm “khoa học” và “chính trị”. Khoa học bao hàm các thuật ngữ “khoa” và “học”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), khoa được hiểu là “vật cầm ở tay giơ lên và đưa đi đưa lại”, nghĩa là nói về sự vật sự sống trong thế giới tự nhiên; học được hiểu là “thu nhận kiến thức, luyện tập kĩ năng do người khác truyền lại”, nghĩa là nói về hiện tượng sức sống trong xã hội loài người; còn khoa học được hiểu là hệ thống “tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực”, nghĩa là nói về hiện thực cuộc sống trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người. Sự sống biểu hiện bản chất chưa thật về quy luật phát triển của tự nhiên; sức sống biểu hiện tính chất không thật về quy luật phát triển của xã hội; còn cuộc sống biểu hiện thực chất sự thật về quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Tức là, khoa học biểu hiện sự thật về quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Nói cách khác, khoa học gắn liền với sự thực (sự thật) phát triển, sự chân thật của con người; không tôn trọng sự thật hay không chân thật thì con người không thể nhận thức khoa học nói chung, khoa học tự nhiên, xã hội, công nghệ, môi trường nói riêng.

Chính trị bao hàm các thuật ngữ “chính” và “trị”. Theo Từ điển Tiếng Việt nêu trên, chính được hiểu là cái quan trọng hơn “những cái khác cùng loại”, nghĩa là công chức, viên chức trong cơ quan hành pháp của quốc gia điều hành thực hiện các mục tiêu chưa phát triển; trị gắn với “Cai trị”, nghĩa là đại biểu dân cử trong cơ quan lập pháp của quốc gia xây dựng các mục tiêu không phát triển; còn chính trị được hiểu là “tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước, và về quan hệ chính thức giữa các nước với nhau”, nghĩa là nói về đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, công tố, kiểm sát viên trong chính quyền dân sự của quốc gia xây dựng, điều hành thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu phát triển.

Phát triển bao hàm các thuật ngữ “phát” và “triển”. Phát biểu hiện bản chất chưa cân đối về môi sinh của các tập thể loài vật trong tự nhiên, chưa công bằng về quyền lợi vật chất của các nhóm trong cộng đồng người; triển biểu hiện tính chất không cân bằng về môi trường của các cá thể loài vật trong tự nhiên, không bình đẳng về giá trị tinh thần của các cá nhân trong nhóm; còn phát triển biểu hiện thực chất “sự cân đối, cân bằng, hài hoà về môi trường sống của các cá thể, tập thể, xã hội loài vật trong thế giới tự nhiên, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi vật chất, giá trị tinh thần, đời sống tâm linh của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người” [1].

Luật, khoa học, chính trị và phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành “luật khoa học chính trị phát triển” hay “khoa học chính trị có luật phát triển” (political science has laws of development). Khái niệm này gắn với khoa học chính trị quốc gia có luật phát triển (national political science has developed law) và khoa học chính trị quốc tế có luật phát triển (international political science has developed law). Luật khoa học chính trị quốc gia là nói về thành viên của chính quyền dân sự chân thật đề ra phương pháp, xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành, thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển quốc gia; còn luật khoa học chính trị quốc tế là nói về thành viên của Liên Hợp Quốc chân thật đề ra phương pháp, xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành, thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển quốc tế.

Từ các phân tích và khái niệm nêu trên cho thấy rằng, luật khoa học chính trị phát triển gắn liền với văn hoá. Khoa học chính trị không phát triển là không có văn hoá luật; khoa học luật không văn hoá là chính trị không phát triển, hay chính trị học giả dối là luật không phát triển (false politics is law that does not develop). Nói cách khác, hình thức khoa học chính trị không luật là không phát triển, nội dung khoa học chính trị chưa luật là chưa phát triển, còn nguyên lý khoa học chính trị luật là phát triển (political science and law are evolving).

Luật khoa hoc chính trị phát triển gắn với quốc gia và quốc tế. Trong quốc gia, luật khoa học chính trị phát triển gắn với quốc gia có văn hoá; trong cộng đồng quốc tế, luật khoa học chính trị phát triển gắn với quốc tế có văn hoá.Theo đó, quốc gia không có luật lệ khoa học chính trị thì không thể phát triển đất nước bền vững; Liên Hợp Quốc không có luật lệ khoa học chính trị thì không thể phát triển quốc tế bền vững.

Hạn chế hiểu biết luật khoa học chính trị phát triển trên thế giới và ở Việt Nam

i) Hạn chế trên thế giới:

Luật khoa học chính trị phát triển gắn với đời sống xã hội ở các quốc gia. Tuy nhiên, hiểu biết khái niệm này của công dân nói chung, giới lãnh đạo, nghiên cứu nói riêng ở nhiều quốc gia còn hạn chế. Chẳng hạn, giới nghiên cứu chưa hiểu rõ mối liên hệ giữa các mặt của luật và khoa học như sau: tính chất hình thức luật không khoa học (sai), bản chất nội dung luật chưa khoa học (chưa đúng), thực chất nguyên lý luật khoa học (đúng); hay chưa hiểu rõ mối liên hệ giữa luật, chính trị, khoa học và phát triển như sau: tính chất hình thức luật chính trị không khoa học không phát triển, bản chất nội dung luật chính trị chưa khoa học chưa phát triển, thực chất nguyên lý luật chính trị khoa học phát triển. Tức là, nhiều người nghiên cứu chưa hiểu rõ rằng, không có luật khoa học chính trị thì quốc gia không phát triển bền vững.

Hạn chế hiểu biết khoa học chính trị và luật phát triển làm cho giới nghiên cứu không phân biệt rõ mối liên hệ giữa tính chất hình thức luật chính trị không khoa học nước không phát triển, bản chất nội dung luật chính trị chưa khoa học nước chưa phát triển, thực chất nguyên lý luật chính trị khoa học nước phát triển; không phân biệt rõ mối liên hệ giữa hình thức luật chính trị không chân thực nước không văn hoá, nội dung luật chính trị chưa chân thực nước chưa văn hoá, luật chính trị chân thực nước văn hoá (true political law and cultural country); hay làm cho giới nghiên cứu không hiểu rõ quyền lực chính trị quốc gia là nói về  cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp chân thật xây dựng, điều hành thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu phát triển cộng đồng quốc gia, còn quyền lực chính trị quốc tế là nói về thành viên của Liên Hiệp Quốc chân thật xây dựng, điều hành thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu phát triển cộng đồng quốc tế. Nói cách khác, quyền lực chính trị là không gắn với “quyền lực mềm” (sức mạnh mềm), “quyền lực cứng” (sức mạnh cứng) hay “quyền lực thông minh” (sức mạnh thông minh) như nhiều người nghiên cứu lầm tưởng.

Hạn chế hiểu biết vấn đề nêu trên dẫn đến tư tưởng văn hoá độc quyền nhóm trong chính trị quốc gia, như “cách mạng văn hoá” kiểu bạo lực ở Trung Quốc những năm 60 của thế kỷ XX gây ra “thảm hoạ nhân đạo” [2]; dẫn đến tư tưởng văn hoá độc quyền quốc gia trong chính trị quốc tế, như “cách mạng vô sản” bằng “con đường bạo lực” giết hại hàng triệu người của các đảng cộng sản từ đầu thế kỷ XX đến nay; dẫn đến “chính trị nhà nước”, “chiến tranh chính trị và ý thức hệ” [3], sự tranh cãi, đấu tranh giành quyền lực và đe doạ, huỷ hoại tình hữu nghị vốn có giữa các dân tộc, quốc gia trong cộng đồng quốc tế; dẫn đến “kỷ nguyên của những tội đồ phá hoại hành tinh” [4] bởi mặt trái tăng trưởng của “toàn cầu hoá” chứ không coi trọng phát triển kinh tế, hay bởi căn bệnh “sùng bái tăng trưởng” về số lượng “Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)” chứ không quan tâm đến chất lượng phát triển bảo đảm công bằng, bình đẳng, công lý trong xã hội và không nhận thấy rõ GDP lại ưa “thích sự ô nhiễm”, “không hề ghét các cuộc chiến tranh” [5]; dẫn đến tình trạng bạo lực “kéo dài bất tận ở nhiều nơi trên thế giới” [6], nội chiến giữa các dân tộc, chiến tranh huỷ diệt trong cộng đồng quốc tế (destructive war in the international community) qua hàng nghìn năm lịch sử ở nhiều khu vực, vùng, miền, châu lục từ cổ xưa đến nay, khiến cho nhân loại khổ đau, đe doạ sự sống của loài người trên trái đất; đặc biệt, dẫn đến các hình thức tư tưởng “chủ nghĩa” (thiên lệch) mà nổi bật là chủ nghĩa dân tộc, tranh giành lãnh thổ, đất đai làm cho cộng đồng người Do Thái sống vô tổ quốc hàng nghìn năm, nguyên nhân tạo nên điểm nóng xung đột đang diễn ra ở Trung Đông “còn lâu mới tới hồi kết thúc” [7].

ii) Hạn chế ở Việt Nam:

Hiểu biết luật khoa học chính trị phát triển ở Việt Nam còn nhiều hạn chế; bởi vì, ngay cả khái niệm pháp luật, khoa học, chính trị, phát triển đều chưa được giới nghiên cứu làm rõ về học thuật. Trong Từ điển Tiếng Việt như đã dẫn ở trên cho thấy rằng, pháp luật chỉ được nhìn nhận một cách khái quát là “tổng hợp các quy định có tính chất bắt buộc do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế”, chứ không nhìn nhận cụ thể là đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, công tố, kiểm sát viên trong cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia đề ra phương pháp, xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành, thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển;khoa học chỉ được nhìn nhận mặt nội dung, hình thức về “hoạt động tinh thần”, “phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài”, chứ không nhìn nhận mặt nguyên lý về quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; chính trịchỉ được nhìn nhận là hình thức mục tiêu hay “mục đích, đường lối” chung chung, chứ không nhìn nhận cụ thể là cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp xây dựng, điều hành thực hiện, thực thi các mục tiêu phát triển.

Hạn chế hiểu biết luật khoa học chính trị phát triển làm cho công dân nói chung, đội ngũ cán bộ (đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, kiểm sát viên), giới lãnh đạo, nghiên cứu nói riêng không hiểu rõ đâu là nội dung luật chính trị khoa học chưa phát triển (chưa đúng đắn), đâu là hình thức luật chính trị khoa học không phát triển (sai lầm), đâu là nguyên lý luật chính trị khoa học phát triển (đúng đắn); không hiểu rõ rằng, chính trị ổn định thì nước không phát triển (if politics is stable, the country will not develop), trái lại, chính trị không ổn định thì nước phát triển (if politics is not stable, the country will develop).

Hạn chế hiểu biết vấn đề nêu trên dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chẳng hạn, như trong xây dựng, thực hiện, thi hành luật: diễn ra “hiện tượng cơ quan điều tra, Tòa án và Viện Kiểm sát hoặc Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên “họp nội bộ” để thống nhất quan điểm giải quyết vụ án, định tội bị cáo trước khi xét xử” [8], “xây dựng pháp luật nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung còn nhiều hạn chế” [9]; trong tư duy về lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội: sai lầm về khoa học khi nhiều người, kể cả lãnh đạo, nhận thức rằng “sự ổn định chính trị mang lại phát triển kinh tế” [10] và “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội” [11]; đặc biệt, hiện nay diễn ra tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị”, “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” [12], hay vào thế kỷ XXI rồi nhưng vẫn còn nhiều người nghiên cứu ấu trĩ khi cho rằng: “Bạo lực cách mạng là phương thức duy nhất để một giai cấp mới, tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị” [13], “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền là một tất yếu lịch sử” [14], “lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân” là để “tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [15].

Giải pháp nhận thức đúng đắn, xây dựng mô hình luật chính trị phát triển

1) Nhận thức đúng đắn luật chính trị phát triển:

Luật chính trị phát triển biểu hiện mối liên hệ giữa ba mặt cơ bản về chất của nó như sau: tính chất hình thức luật chính trị không phát triển; bản chất nội dung luật chính trị chưa phát triển; thực chất nguyên lý luật chính trị phát triển. Tuy nhiên, từ trước đến nay giới nghiên cứu chỉ nhìn nhận ở hai mặt bản chất nội dung và tính chất hình thức chứ không nhìn nhận mặt thực chất nguyên lý ở giữa nội dung và hình thức của khái niệm này. Do vậy, để nhận thức đúng đắn luật chính trị phát triển, giới nghiên cứu cần phải nhìn nhận rõ ba mặt chủ yếu của luật, đó là: tính chất hình thức luật chính trị không khoa học, không phát triển, sai lầm; bản chất nội dung luật chính trị chưa khoa học, chưa phát triển, chưa đúng đắn; thực chất nguyên lý luật chính trị khoa học, phát triển, đúng đắn.

2) Xây dựng mô hình luật phát triển:

Luật chính trị khoa học phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm luật phát triển (development law). Tuy nhiên, khái niệm này chỉ được giới nghiên cứu nhìn nhận ở các mặt tính chất hình thức luật không phát triển gắn với luật không khoa học, bản chất nội dung luật chưa phát triển gắn với luật chưa khoa học, chứ không nhìn nhận rõ mặt thực chất luật phát triển tồn tại ở giữa gắn với luật khoa học (scientific law), dạng mô hình: nội dung luật chưa khoa học chưa phát triển – nguyên lý luật khoa học phát triển – hình thức luật không khoa học không phát triển.

Tức là, để xây dựng mô hình luật phát triển cần phải thay đổi cách tư duy từ tính chất hình thức luật sai lầm, bản chất nội dung luật chưa đúng đắn sang thực chất nguyên lý luật đúng đắn, đồng thời nghiên cứu, giảng dạy luật khoa học, chính trị học và luật phát triển trong các trường học, học viện phù hợp với hiện thực công việc giáo dục, đào tạo.

3) Xây dựng mô hình chính trị phát triển:

Luật khoa học chính trị phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm chính trị phát triển (political development). Tuy nhiên, khái niệm này chỉ được giới nghiên cứu nhìn nhận ở các mặt tính chất hình thức chính trị không phát triển, bản chất nội dung chính trị chưa phát triển, chứ không nhìn nhận rõ mặt thực chất chính trị phát triển tồn tại ở giữa, dạng mô hình: nội dung chính trị chưa phát triển – nguyên lý chính trị phát triển – hình thức chính trị không phát triển.

Tức là, để xây dựng mô hình chính trị phát triển cần phải thay đổi cách tư duy từ tính chất hình thức chính trị sai lầm, bản chất nội dung chính trị chưa đúng đắn sang thực chất nguyên lý chính trị đúng đắn, đồng thời nghiên cứu, giảng dạy chính trị học phát triển trong các trường học, học viện phù hợp với hiện thực công việc giáo dục và đào tạo.

Kết luận

Luật khoa học chính trị phát triển là khái niệm nói về cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia hay thành viên của Liên Hợp Quốc chân thật đề ra phương pháp, xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành thực hiện, thực thi các mục tiêu phát triển tự nhiên, xã hội, con người, quốc gia, cộng đồng quốc tế. Hiện nay, khái niệm này chưa được giới nghiên cứu làm rõ về thực chất nguyên lý; đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều bất cập trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước bền vững, bảo đảm cuộc sống bình an hạnh phúc của nhân dân, giới nghiên cứu, đặc biệt là giới lãnh đạo cần phải đổi mới thật sự sáng tạo về tư duy từ tư duy tính chất hình thức không khoa học, bản chất nội dung chưa khoa học sang tư duy thực chất nguyên lý khoa học, đồng thời nhận thức đúng đắn và xây dựng mô hình luật chính trị phát triển.

./.

Tài liệu trích dẫn:

[1] https://vanhoavaphattrien.vn/xay-dung-moi-truong-van-hoa-phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-a17203.html

[2] https://vnexpress.net/nhung-moc-chinh-trong-cach-mang-van-hoa-trung-quoc-3404403.html

[3] https://diendankhaiphong.org/2023/09/15/the-ky-cuc-doan/

[4] https://diendankhaiphong.org/nhung-thu-pham-pha-hoai-hanh-tinh/

[5] https://qln.mof.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/ky-1-su-sung-bai-tang-truong.htm

[6] https://kinhtedothi.vn/thay-gi-o-5-quoc-gia-nguy-hiem-nhat-the-gioi.html

[7] https://daibieunhandan.vn/The-gioi-24h/xung-dot-israel-palestine-cai-nhin-tu-lich-su-i346179/

[8] https://lsvn.vn/nguyen-tac-tranh-tung-trong-xet-xu-duoc-bao-dam-quy-dinh-va-thuc-tien-thuc-hien1650638840.html

[9] https://phapluatquanly.vietnamhoinhap.vn/mot-so-han-che-va-giai-phap-khac-phuc-trong-xay-dung-phap-luat-o-nuoc-ta-hien-nay-3198.htm

[10] https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/su-on-dinh-chinh-tri-mang-lai-phat-trien-kinh-te-o-viet-nam-708960

[11] http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-bao-ve-vung-chac-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/phe-phan-quan-diem-cho-rang-luan-thuyet-dau-tranh-giai-cap-la-dong-luc-phat-trien-xa-hoi-c/10105.html

[12] https://nhandan.vn/ly-giai-tinh-trang-nhat-dang-kho-doan-xa-roi-chinh-tri-post744492.html

[13] https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/phe-phan-luan-dieu-xuyen-tac-cach-mang-thang-muoi-la-say-me-bao-luc-710189

[14] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/4787-dau-tranh-phan-bac-luan-dieu-%E2%80%9Cmot-dang-cam-quyen-o-viet-nam-la-doc-tai-mat-dan-chu%E2%80%9D.html

[15] http://m.tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/cach-mang-thang-muoi-nga-la-mot-sai-lam-cua-lich-su-luan-thuyet-phan-dong-nhat-dinh-bi-pha-san-19441.html

Nguyễn Hữu Đổng, ngày 17/10/2023

Trở về trang chủ

Xem thêm những bài biên khảo của Nguyễn Hữu Đổng