Trang chủ » THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – DI SẢN CÁCH MẠNG PHÁP 1789

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – DI SẢN CÁCH MẠNG PHÁP 1789

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Biên soạn: Tôn Thất Thông – Hiệu đính: Hoàng Lan Anh

Sự kiện một nền quân chủ lâu đời nhất, mạnh nhất, vững vàng nhất, huy hoàng nhất châu Âu bị bánh xe lịch sử nghiền nát trong một thời gian kỷ lục, sự kiện đó có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn.

***

Sau hai bài phân tích về nguyên nhân cuộc cách mạng Pháp, hôm nay chúng ta đề cập đến di sản của cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu này trong lịch sử nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh, như tiến độ vũ bão của cách mạng, hoặc ai là lực lượng chủ đạo của cách mạng, hoặc thành phần và tính chất, của những nhóm người tham gia cách mạng, và nhất là, ảnh hưởng của cuộc cách mạng, lên tiến trình lịch sử thế giới trong những thế kỷ về sau, thì cuộc cách mạng Pháp năm 1789, là một biến cố lịch sử có một không hai.

Mặc dù diễn biến cuộc cách mạng 1789 không phải là chủ đề quan trọng đối với chúng ta, nhưng thiết tưởng cũng nên lướt qua vài trang về những sự kiện quan trọng trong vài năm đầu, từ đó, việc phân tích các di sản của cách mạng cũng dễ được làm sáng tỏ hơn.

Diễn biến cách mạng trong năm 1789

Có không ít sử gia cho rằng, tư tưởng tiến bộ và ý thức phản kháng của giới trí thức tư sản là động lực châm ngòi cho cuộc cách mạng bùng phát. Nhưng có lẽ ảnh hưởng của các tư tưởng chính trị lên sự bùng nổ cách mạng không nên được đánh giá quá cao. Tất nhiên, chúng có những tác động sâu sắc lên các hoạt động trước, trong lúc và sau cuộc cách mạng. Những tờ truyền đơn, lời hiệu triệu, nội dung của tuyên ngôn nhân quyền, các đạo luật cải cách và cả hiến pháp sau này đều được phác thảo bởi giới trí thức tư sản. Nhưng gọi tư tưởng tiến bộ của họ là động lực của cách mạng thì cũng không chính xác. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng có thể tìm thấy qua sự phát triển tình hình chính trị và xã hội trước đó. Có những biến cố rời rạc trong quá khứ, nhưng liên kết lại với nhau đã tạo nên ngòi nổ cách mạng, nhất là những biến cố trong năm 1788[1].

Đó là một năm định mệnh của Vương triều Louis XVI. Bên cạnh cuộc khủng hoảng tài chính chưa tìm được lối ra, thêm nền kinh tế suy thoái dẫn đến đói nghèo và bất mãn trong dân chúng, thì dường như Thượng Đế cũng nổi giận và giáng thêm những đòn trừng phạt mới. Mùa hè năm 1788 là mùa hạn hán chưa từng có trên đất Pháp từ hơn 50 năm trước. Mùa màng thiệt hại hơn một nửa, giá bánh mì dâng cao đến độ lương một người lao động chỉ đủ để mua bánh mì nuôi gia đình.

Chưa hết, mùa đông năm đó nhiệt độ xuống thấp chưa từng thấy trong vòng 100 năm trước. Cuộc khủng hoảng lương thực từ mùa hè, giờ đây thêm khủng hoảng năng lượng làm cho đời sống người dân vô cùng khốn đốn. Đối với người dân Pháp kể từ đầu thế kỷ 18, bánh mì là nguồn lương thực để sinh tồn. Đối với những người không có tài sản, bánh mì quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác. Họ có thể làm bất cứ chuyện gì, sẵn sàng hy sinh mọi thứ, nếu chuyện đó giúp họ giải quyết nhu cầu thực phẩm. Bần cùng sinh đạo tặc, nạn đói đã làm xã hội rối loạn khắp nơi trong nước, cướp bóc, bạo loạn đường phố là chuyện xảy ra hàng ngày. Người dân cả nước phải đấu tranh để sinh tồn. Cuộc khủng hoảng chính trị đã lên đến cực điểm. Xã hội giống như một thùng thuốc súng, chỉ cần ai châm ngòi là bùng nổ.

Trước đó, trong cuộc khủng hoảng tài chính, ngân quỹ đã trống rỗng, các chủ tịch ngân hàng gây sức ép lên nhà vua đòi hỏi phải có một bộ trưởng tài chánh mới. Vua Louis XVI chỉ định Jacques Necker làm bộ trưởng tài chính ( Directeur Général des Finances) vào tháng 6 năm 1777. Ông là người có năng lực về kinh tế, đã từng thành công trong việc quản lý ngân hàng, từng có bốn năm làm bộ trưởng tài chính. Nhưng quan trọng hơn hết, ông là người duy nhất trong nội các được người dân tin cậy. Necker cũng là một gương mặt quen thuộc trong các câu lạc bộ học thuật ở Paris, là đại biểu danh giá của trào lưu khai sáng. Ông tuyên bố trong ngày nhậm chức: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà nước là bảo đảm đầy đủ bánh mì và ngũ cốc cho mỗi người dân”. Điều đó đã xoa dịu phần nào bất mãn của người dân lao động. Họ nhìn vào Necker như một niềm hy vọng mới.

Để tìm giải pháp cho cuộc cải tổ thuế khóa, Jacques Necker thuyết phục vua Louis XVI triệu tập Hội đồng Tổng quát (États Généraux) vào ngày 5 tháng 5 năm 1789. Định chế này hoạt động giống như một loại quốc hội bao gồm ba phe với các thành phần như sau: Tăng lữ có 300 đại biểu, quý tộc có 300 đại biểu và tầng lớp thứ ba có 600 đại biểu.

Thành phần đại biểu trong Hội đồng Tổng quát.
Bản quyền: Truyền hình ZDF – Kênh Terra X, chương trình W2G Geschichte.

Đây là lần đầu tiên kể từ 1614, tức là sau 175 năm, đại biểu của ba tầng lớp họp chung với nhau. Giới tăng lữ và quý tộc, được sự ủng hộ của vua Louis, thì muốn việc biểu quyết vẫn giữ như cũ, tức là mỗi phe họp riêng để đưa ra quyết định một phiếu. Tầng lớp thứ ba thì sợ rằng, lá phiếu củ họ sẽ bị áp đảo bởi lá phiếu của hai phe kia, cho nên họ đề nghị rằng, tất cả đại biểu họp chung trong hội đồng và biểu quyết theo tiêu chuẩn đa số. Mục tiêu quan trọng nhất của tầng lớp thứ ba muốn đạt đến trong lần hội họp này là, giới tăng lữ và quý tộc cũng phải đóng thuế như những người khác, có như thế, tình trạng tài chính quốc gia mới được giải quyết phần nào.

Đến đây, vua Louis XVI làm thêm một quyết định sai lầm, tạo nên một khúc ngoặt định mệnh cho lịch sử nước Pháp. Sau sáu tuần tranh cãi triền miên không có kết quả, vua Louis XVI quyết định giải tán hội đồng. Sáng ngày 20-6, khi các đại biểu tầng lớp thứ ba đến cung điện Versailles, phòng họp đã bị đóng cửa. Họ sợ rằng đây là một âm mưu đen tối, nên tiếp tục đi sang phòng họp bên cạnh cung điện Versailles. Đó là sảnh đường sân chơi Tennis (Salle de Jeu de Paume). Họ tuyên thệ rằng, sẽ không rời khỏi Versailles cho đến lúc một hiến pháp mới được biểu quyết. Họ tự thành lập Quốc hội (Assemblée Nationale) và đề nghị giới tăng lữ và quý tộc tham gia. Vua Louis XVI yêu cầu quốc hội tự giải tán, nhưng sau khi giới tăng lữ, với lá phiếu của những linh mục giảng đạo ở địa phương, đồng ý tham dự một tuần sau, quốc hội chính thức hoạt động, và vua Louis cũng phải nhượng bộ. Sự thách thức đầu tiên của nhân dân đối với Vương triều đã thắng, cách mạng đã đạt được cột mốc đầu tiên. Cũng từ đây, chúng ta chứng kiến một khuôn mặt lãnh đạo mới: Maximilien de Robespierre, lúc ấy mới vừa 31 tuổi.

Jacques Necker (1732-1804), Maximilien de Robespierre (1758-1794)

Robespierre mồ côi cả cha lẫn mẹ, là học sinh xuất sắc của trường cấp một tại Arras nên được học bổng để theo học ở trường trung học danh giá  Collège Louis le Grand ở Paris, sau đó ông theo học và tốt nghiệp đại học luật. Trong suốt thời gian ở Paris, Robespierre luôn luôn là học sinh và sinh viên xuất sắc, ông thường xuyên tham gia tích cực vào các câu lạc bộ học thuật và là môn đồ trung thành của Jean-Jacques Rousseau với lý thuyết nhà nước của ông. Lúc trở về Arras để làm “luật sư của những người bị áp bức”, Robespierre tiếp tục nghiên cứu nhiều hơn về trào lưu triết học khai sáng. Lý tưởng của ông là tự do cá nhân, bình đẳng, tự do tư tưởng và báo chí, bình đẳng giới, giải phóng nô lệ ở thuộc địa. Robespierre còn là nhà hùng biện xuất sắc, mỗi câu mỗi chữ đều đặt đúng chỗ, nói đúng lúc với bản năng đạo đức, với nhiệt tình sôi sục rất lôi cuốn người nghe. Và Robespierre cũng là người vô cùng đạo đức và trong sạch. Bạn chiến đấu đương thời gọi ông là “người không thể bị mua chuộc”.

Nếu không nhân danh cách mạng để đưa đến những quyết định chính trị cuồng tín đầy bạo lực trong ba năm kể từ 1791, thì Robespierre là chính trị gia lý tưởng cho mọi cuộc cách mạng và ông sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử Pháp. Tiếc thay, tên của ông đã gắn liền với bạo lực, máu, nước mắt, máy chém Guillotine, và ông đã trở thành tội đồ của lịch sử làm cho người đời sau nguyền rủa cách mạng Pháp.

Máy chém được thiết kế bởi Joseph-Ignace Guillotin

Đầu tháng bảy, vua Louis đưa quân về đồn trú ở Paris với mục đích gây áp lực để giải tán quốc hội. Người dân Paris đứng lên thành lập đội Vệ binh Quốc gia (Garde Nationale) với súng ống cướp được từ kho vũ khí trong thành phố. Trong tình hình hỗn loạn đó, vua Louis XVI làm tiếp một quyết định sai lầm lịch sử: Ông sa thải Jacques Necker, người bộ trưởng duy nhất của nội các được dân chúng tin yêu.

Quyết định đó như giọt nước làm tràn ly, người dân hết kiên nhẫn, tiến về quảng trường Saint-Antoine để tấn công ngục Bastille ngày 14 tháng 7 và thành công. Biến cố này là thông điệp của người dân Paris gửi đến chế độ: “Nhân dân đứng về phía quốc hội và bảo vệ các đại biểu đến cùng, quý Ngài đừng mong có thể giải tán họ”. Sự kiện chiếm ngục Bastille đã biến ngày 14 tháng 7 sau đó trở thành ngày quốc khánh Pháp. Nó là bản cáo trạng chấm dứt chế độ chuyên chế Pháp và nhanh chóng biến thành cơn bão càn quét khắp nơi trên thế giới để làm những bước đi đầu tiên trong công cuộc giải phóng loài người[2]. Vua Louis XVI phải rút lại lệnh sa thải Necker vào ngày hôm sau. Lực lượng cách mạng đã dựng thêm một cột mốc lịch sử quan trọng. Lá quốc kỳ ba màu xanh-trắng-đỏ ra đời trong biến cố đó, và 14 tháng 7 trở thành ngày quốc khánh của Pháp cho đến ngày nay.

Jean-Baptiste Lallemand – Storming of the Bastille and arrest of the Governor M. de Launay, 1790.

Nhưng biến cố chiếm ngục Bastille cũng chưa quan trọng bằng thành quả chính trị mà phe cách mạng đạt được trong vòng ba tháng sau đó. Sự thách thức của phe cách mạng đối với Vương triều dù ôn hòa bất bạo động nhưng vô cùng quyết liệt. Họ đã đạt được tất cả những đòi hỏi của một xã hội dân sự, tước đoạt quyền lực của chế độ quân chủ chuyên chế vốn đã xây dựng nhiều thế kỷ trước: Bãi bỏ quyền lập pháp của nhà vua và đưa quyền lực đó về quốc hội; bãi bỏ đặc quyền của tăng lữ và quý tộc ở thành phố và địa phương; bãi bỏ quyền cai trị của hệ thống phong kiến; bãi bỏ chế độ nông nô; bãi bỏ ưu đãi về thuế của tăng lữ và quý tộc; chính thức hóa quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật; công nhận các quyền tự do căn bản, quyền tư hữu, quyền phản kháng, quyền tự quyết; công dân được tiếp cận miễn phí đến các dịch vụ tư pháp; quy định thể thức bầu cử để chọn thẩm phán chứ không còn được chỉ định như trước; quốc hữu hóa tất cả bất động sản của nhà thờ; ban bố Tuyên ngôn Nhân quyền và quyền Công dân[3] v.v…

Tuyên ngôn Nhân quyền và quyền Công dân.

Nước Pháp đang trên bước đường đi từ chế độ quân chủ chuyên chế chuyển sang quân chủ lập hiến. Nếu như ở Anh quyền lực quốc gia nằm trong hai định chế ngang sức cạnh tranh nhau là Vương triều và quốc hội, thì ở Pháp, nhà vua phải san sẻ quyền lực với nhân dân thông qua đại biểu quốc hội, và rõ ràng quyền lực đó giảm sút từng ngày. Vua Louis XVI bị ép buộc phải ký giấy ban hành đạo luật này đến đạo luật khác và như thế, tự mình giới hạn quyền lực của chính Vương triều, của các định chế phong kiến khác trong guồng máy nhà nước và của cả hệ thống nhà thờ Công giáo. Trong thực tế, nhà vua chỉ còn cai trị trên danh nghĩa và người ta không còn sợ hãi một nguy cơ về sự trở lại của chế độ chuyên chế.

Sau đó, với cuộc tuần hành từ Paris đến trước cung điện Versailles ngày 5 tháng 10 của 6.000 phụ nữ chợ cá – dần dần tăng lên 20.000 trong ngày hôm sau – vua Louis XVI sợ hãi nhượng bộ, thu gom tất cả thực phẩm trong cung điện phân phát cho dân và theo chân đoàn biểu tình về Paris. Kể từ đây, gia đình vua Louis XVI vĩnh viễn không trở về Versailles mà phải ở lại trong cung điện Palais des Tuileries với một số quan chức phục dịch. Có một ranh giới rõ rệt về những gì nhà vua có thể làm. Về thực chất, nhà vua đã bị quản thúc tại gia trong thành phố Paris. Vua đã mất hết mọi quyền lực, chỉ còn nhiệm vụ ký vào các quyết định của quốc hội. Quyền lực quốc gia hoàn toàn nằm trong tay nhân dân mà đại diện là quốc hội. Thật là một bi kịch lịch sử đáng ngạc nhiên: Những người phụ nữ mà đại đa số không biết đọc biết viết đã đặt dấu chấm hết cho Vương triều quân chủ chuyên chế qua một cuộc biểu tình chỉ kéo dài hai ngày.

Tuần hành của phụ nữ Paris đến Versailles

Kể từ đó, nước Pháp đã được chuyển hóa sang chế độ quân chủ lập hiến, với một tương quan lực lượng rõ rệt nghiêng hẳn về nhân dân thông qua quốc hội. Cánh cửa để tiến vào chế độ tự do dân chủ một cách ôn hòa đã được mở ra. Quốc hội cũng dời về Paris. Người dân Pháp bắt đầu hưởng những làn gió đầu tiên của đời sống dân chủ trong gần hai năm về sau. Nếu mọi chuyện vẫn tiếp tục như thế thì ánh hào quang của cách mạng sẽ tồn tại lâu dài biết bao? Nhưng lịch sử có những bất ngờ oái ăm.

Di sản của cách mạng Pháp

Bi kịch của chế độ quân chủ chuyên chế trong thế kỷ 18 không phải là chiến tranh, cũng không phải là những biến cố cách mạng dữ dội trong năm 1789 tại Pháp, mà là sự tan rã của hệ tư tưởng cũ để được thay thế bằng những sáng kiến mới vốn dĩ được ươm mầm từ thế kỷ 17, thăng hoa trong thế kỷ 18 và hiển lộ qua những biến cố dồn dập và tạo thành trào lưu cách mạng năm 1789[4].

Nói một cách khái quát, cuộc cách mạng năm 1789 là sự đảo ngược đột ngột cán cân quyền lực quốc gia, mà thành phần khởi xướng và thúc đẩy cách mạng là những người yếu thế trong xã hội, trong tay không có vũ khí, cũng không có sự hỗ trợ từ quân đội hay cảnh sát. Vũ khí của họ chỉ là nhiệt tình cách mạng, ý chí đấu tranh chống bất công, vốn dĩ qua thời gian được trang bị bằng những tư tưởng tiến bộ của trào lưu khai sáng. Qua biến cố lịch sử được châm ngòi bởi cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế và tài chính, phong trào cách mạng đã làm suy yếu chế độ quân chủ chuyên chế và phá hủy nền tảng chính trị của nó trong vòng vài tháng.

Cuộc cách mạng đã biến nước Pháp trở thành quốc gia dân chủ đầu tiên tại châu Âu, được hợp pháp hóa và thực hiện các đòi hỏi về tự do, đặc biệt là các quyền con người và quyền công dân. Thêm vào đó, cho dù mộng bành trướng với những cuộc chiến tranh xâm lược của Napoléon đáng bị nguyền rủa, nhưng mât khác, các chiến dịch của Napoléon đã khiến chế độ quân chủ của các quốc gia ở châu Âu sụp đổ như những quân cờ Domino, đồng thời bộ luật dân sự đầu tiên (code civil) được Napoléon mang đến quảng bá ở nhiều quốc gia và vẫn giữ giá trị của nó cho đến ngày nay.

Một đặc tính của cuộc cách mạng Pháp là, nó xảy ra một cách tự phát không ai tính trước. Nó không được lãnh đạo bởi một đảng phái chính trị, hoặc một trào lưu cụ thể, hoặc một nhân cách lớn có sức thu hút quần chúng, như khuôn mẫu các cuộc cách mạng chúng ta thường thấy trong thế kỷ 20. Sự vươn dậy của Napoléon là một ngoại lệ, nhưng ngoại lệ này cũng chỉ là biến cố lịch sử trong giai đoạn hậu cách mạng.

Trong bối cảnh lỏng lẻo đó, sự thỏa hiệp về những sáng kiến chung trong vòng nhóm người thuộc một tầng lớp xã hội cùng hoàn cảnh, đã tạo nên mối đoàn kết rất bền vững của trào lưu cách mạng. Nhóm người đó là “tầng lớp tư sản” Pháp. Sáng kiến của họ có gốc rễ từ chủ nghĩa tự do trong kỷ nguyên khai sáng, mà các triết gia và kinh tế gia tự do đã triển khai suốt gần hai thế kỷ và được quảng bá rộng rãi thông qua các hội Tam Điểm (Freemasonry) hoặc những tổ chức tư nhân khác. Nhìn trên giác độ đó, triết gia chính là những người cha tinh thần của cuộc cách mạng[5].

Thực ra, cách mạng cũng có thể bùng nổ mà chưa cần đến sự tham gia của tầng lớp tư sản trí thức. Nhưng chính họ đã tạo nên sự khác biệt căn cơ, so với hầu hết các cuộc cách mạng khác. Đó là, ngay sau khi chế độ cũ sụp đổ, một chế độ mới mang tính chất biến đổi hệ hình được thành lập một cách nhanh chóng và hiệu quả, dựa trên một hệ thống lý thuyết được cân nhắc kỹ lưỡng và xây dựng từ hơn một thế kỷ trước. Và ở đây, tập thể triết gia đã làm tròn vai trò lịch sử của họ, để lại một di sản vô cùng lớn cho thế giới sau này.

Nói cách khác, nếu như giai cấp tư sản đã đào mồ chôn vùi chế độ quân chủ chuyên chế Pháp, thì cũng chính chế độ mới với ý thức hệ tự do đã củng cố giai cấp tư sản ngày càng vững mạnh. Lịch sử châu Âu trong thế kỷ 19 chính là lịch sử vươn dậy của giai cấp tư sản theo khuôn mẫu cách mạng Pháp năm 1789. Đó là điều rõ ràng đầu tiên mà chúng ta có rút tỉa từ cách mạng Pháp. Đặc biệt là, đòi hỏi của giới tư sản thể hiện rõ rệt trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và quyền Công dân, trong đó được quy định rõ:“Mọi người sinh ra đều được sống trong tự do và bình đẳng trước pháp luật”.

Kể từ đây, giai cấp tư sản hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình và viết nên những trang sử mới trong suốt thế kỷ 19, thay đổi hẳn bộ mặt xã hội châu Âu, định hướng đi và mô hình chính trị cho nhiều quốc gia, nơi người dân mong muốn xây dựng một chế độ dân chủ tự do.

Lenin cũng đã từng nhận xét rằng, cách mạng Pháp xứng đáng được gọi là cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết bao nhiêu việc cho giai cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỷ 19 là thế kỷ đem lại văn minh và văn hóa cho toàn nhân loại, mà tinh thần và diễn biến lịch sử xảy ra trong tinh thần của cách mạng Pháp.

Ngoảnh nhìn lại những biến cố dồn dập trong thập niên 1790 tại Pháp, chúng ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi, điều gì đã khiến cho cuộc cách mạng Pháp năm 1789 trở thành một biến cố lịch sử phi thường không thể nào quên, để cho đến bây giờ sau gần 300 năm, loài người vẫn tiếp tục nhắc đến nó, vừa ngưỡng mộ xem đó là biểu tượng của sự phản kháng dân sự để giành lấy tự do, bình đẳng, đồng thời nguyền rủa sự tàn bạo của “những con thú hai chân” ở giữa lòng kinh đô ánh sáng, trung tâm văn hóa của châu Âu – như tờ báo London Times viết vào năm 1792 về nhóm quá khích Jacobins.

Nhưng cho dù những bạo lực, máu và nước mắt do những người lãnh đạo cuộc cách mạng – đứng đầu là Maximilien de Robespierre – gây ra cho người dân, đẩy nước Pháp đến hỗn loạn, bạo lực, tiến gần đến bờ vực sụp đổ trong suốt ba năm, thì thành quả vĩ đại của cuộc cách mạng Pháp cũng không thể bị xóa nhòa. Với sự sụp đổ chế độ chuyên chế Louis XVI, nước Pháp bắt đầu một thời gian phát triển về mọi mặt.

Vài năm sau cách mạng, kinh tế bắt đầu ổn định, người dân Pháp không còn phải lo thiếu bánh mì hàng ngày; dân chủ tự do bắt đầu được phát triển mạnh mẽ, nhiều đạo luật bảo vệ quyền tự do được ban hành, đặc biệt mới mẻ là tự do tư tưởng và tự do báo chí; một trật tự xã hội mới được xây dựng dựa trên hệ thống luật pháp lấy nhân quyền, tự do và bình đẳng làm gốc. Và những điều đó không chỉ là thành quả tạm thời trong một giai đoạn ngắn, mà nó đã trở thành giá trị vĩnh cửu cho xã hội Pháp, cho châu Âu và các quốc gia dân chủ sau này trên thế giới.

Dù thuộc xu hướng nào, ôn hòa hay bạo động, trong những người lãnh đạo của trào lưu cách mạng luôn luôn có mặt những đại biểu sáng giá của trào lưu khai sáng. Cuộc cách mạng Pháp năm 1789 chính là điểm khởi đầu của quá trình phân hóa và tan rã của hệ tư tưởng truyền thống cổ hủ, mà gắn liền với nó là sự sụp đổ chế độ quân chủ chuyên chế, chi phối mạnh mẽ lên ý thức người dân về tự do, nhân quyền và thể chế chính trị mới[6].

Cuộc cách mạng 1789 là một khoảnh khắc phi thường, khi mà người dân bắt đầu có niềm tin vững chắc rằng, mọi chuyện đều có thể được đổi mới toàn diện, có thể xây dựng một nền chính trị mới, những định chế mới với những con người mới từ lớp người bình dân và trung lưu vươn lên lãnh đạo quốc gia, một trật tự xã hội mới không còn sự đối kháng giai cấp gay gắt giữa giới tăng lữ, quý tộc, trung lưu trí thức và nông dân thợ thuyền.

Cuộc cách mạng đã vĩnh viễn chấm dứt hệ thống chính trị quân chủ với truyền thống chuyên chế ở Pháp và mở đường cho một tương lai mới mẻ. 1789 là điểm uốn của lịch sử Pháp, là năm bản lề mở rộng cánh cửa cho nước Pháp và cho cả lục địa châu Âu bước vào kỷ nguyên hiện đại, hứa hẹn cho mọi người một niềm hy vọng vô biên vào tương lai, rằng sẽ không còn đói nghèo, không còn áp bức, cuộc đời sẽ được lấp đầy bởi tự do, nhân quyền và bình đẳng cơ hội cho mọi người.

Thành quả của cách mạng lên xã hội Pháp thì quá rõ ràng. Sự vươn dậy mạnh mẽ của giai cấp tư sản là thành quả quan trọng nhất, nó định hướng cho sự phát triển quốc gia Pháp nhiều thế kỷ về sau. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, cấu trúc của giai cấp tư sản Pháp trong giai đoạn đầu chủ yếu không phải là những người có ăn học, cũng không phải giới công thương giàu có, mà bộ phận điền chủ giàu có chiếm thành phần quan trọng trong giai cấp này. Cấu trúc này dần dần thay đổi và hơn một nửa thế kỷ sau, giới trung lưu trí thức và công thương giàu có mới chiếm được vị trí lãnh đạo trong quá trình phát triển lịch sử. Cách mạng Pháp có thể xem là suối nguồn nuôi dưỡng cho giai cấp tư sản thành thị vươn lên làm chủ vận mệnh quốc gia[7].

Cuộc cách mạng, với sự ra đời của đệ nhất cộng hòa vào tháng 9 năm 1792, đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng bộ mặt chính trị sau này của Pháp. Với nguyên tắc tự do và bình đẳng được quy định trong hiến pháp, chủ nghĩa chuyên chế vĩnh viễn chấm dứt, mở đường cho các hình thái nhà nước dân chủ cộng hòa ngày càng vững mạnh.

Ngoài ra, những người nông dân nhỏ cũng thực sự đổi đời kể từ thập niên 1790. Tư hữu của họ từ nay được thừa nhận và bảo vệ bởi luật pháp. Một số nông dân khác nhận được thêm ruộng đất canh tác nhờ cuộc cải cách nông nghiệp đi liền sau cuộc cách mạng.

Trong lúc đó, giới quý tộc bị thu hồi những ưu đãi được chế độ cũ ban phát và trở thành một thành viên như bao người khác. Giai cấp quý tộc thực chất đã tan rã từ đây. Mặc dù đến thế kỷ 19, ưu thế kinh tế của họ được phục hồi phần nào, nhưng điều đó họ đạt được không phải nhờ quan hệ với chính quyền, mà chủ yếu do kỹ năng kinh doanh và tri thức về việc đầu tư của cải vào công nghiệp và thương mại.

Nhưng dù sao, ra khỏi phạm vi địa phương, giới quý tộc cũ không còn sức mạnh nào vốn có thể lập nên những kế hoạch để phục hồi quyền lực trước đây. Giới quý tộc cũ dần dần hòa đồng vào tầng lớp xã hội của công thương gia giàu có hoặc điền chủ tư sản, nhưng họ không có một quyền lực chính trị nào khác khả dĩ ảnh hưởng lên tiến trình phát triển xã hội. Vai trò lịch sử của họ đã vĩnh viễn chấm dứt với cuộc cách mạng năm 1789.

Cuộc cách mạng Pháp cũng là một biến cố có ý nghĩa nhất đối với lịch sử thế giới phương Tây. Cuối thế kỷ 18 là thời gian khởi động nhiều sự phát triển vĩ đại của nhân loại như cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, như sự vươn dậy của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, nhưng cách mạng Pháp vẫn chiếm ngự chỗ đứng vinh quang trong trào lưu phát triển chung. Nó thay đổi tận gốc mọi thứ vốn đã tồn tại suốt hai ngàn năm.

Con người tự giải phóng mình ra khỏi sự ràng buộc của Giáo hội Công giáo, ra khỏi thế giới quan Kitô, tách rời giới quý tộc ra khỏi cộng đồng và dần dần xóa bỏ nó, hạ bệ cả vua chúa vốn từ trước được tôn sùng như thần thánh, như một thế lực bất khả xâm phạm được bảo kê bởi Thượng Đế. Cuộc cách mạng này đã làm cho hệ thống chính trị châu Âu rung chuyển tận gốc, và tác dụng của nó không dừng ở biên giới của lục địa, mà đã trở thành biểu tượng của sự đấu tranh cho tự do ở các lục địa khác trong suốt thế kỷ 19 và 20.

Sử gia Eric Hobsbawm tóm tắt rất ngắn gọn nhưng súc tích thành quả của cách mạng Pháp như sau: “Nước Pháp đã cung cấp cho thế giới một hình tượng gương mẫu về cuộc cách mạng xuất phát từ những người không có vũ khí. Và khi đã thành công, nó hình thành những khái niệm và từ ngữ cho chủ nghĩa quốc gia; nó định hình và quảng bá một bộ luật dân sự (Code Civil) mà tinh thần và nội dung còn để lại ảnh hưởng lên rất nhiều nước cho tới ngày nay. Trong vòng vài thập niên, Pháp đã thành lập những định chế khoa học và kỹ thuật làm mẫu mực cho cả thế giới sau này và qua đó xây dựng hệ thống đo lường mê-tric sau này áp dụng trong hầu hết các nước trên thế giới, đẩy lùi dần dần hệ thống đo đạc Imperial. Thông qua ảnh hưởng của cách mạng Pháp, hệ tư tưởng của thế giới hiện đại lần đầu tiên thâm nhập vào nền văn minh cổ đại vốn dĩ cho đến thời điểm đó vẫn đối kháng với các sáng kiến của châu Âu[8]”.

Cách mạng Pháp là một thí dụ điển hình hiếm hoi trong lịch sử nhân loại, khi mà nhân dân đứng lên tự nắm lấy vận mệnh của mình mà không cần một thế lực nào bên ngoài hỗ trợ. Sự kiện một nền quân chủ lâu đời nhất, mạnh nhất, vững vàng nhất, huy hoàng nhất châu Âu bị bánh xe lịch sử nghiền nát trong một thời gian kỷ lục, sự kiện đó có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn.

Cách mạng pháp đã lật đổ trật tự xã hội cũ, tức hệ thống quân chủ phong kiến và ghi lại dấu ấn không bao giờ phai nhòa trong lịch sử văn minh loài người. Bạo lực không bao giờ tránh được trong mỗi cuộc cách mạng, nhưng câu hỏi từ cuộc cách mạng Pháp là, bạo lực với mức độ nào là có thể được chấp nhận để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn? Có phải là nhân dân có quyền lật đổ một chế độ họ xem là phi pháp để thay bằng một chế độ mới mà theo họ là công minh? Để đạt mục đích đó, bạo lực đến mức độ nào là vừa phải? Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn tiếp tục bận tâm với những câu hỏi như thế.

Thực tế cho thấy, bài học lớn rút ra từ cuộc cách mạng Pháp là, phong trào nổi dậy của quần chúng, dù rất hăng hái với quyết tâm cao và phổ biến rộng ở nhiều nơi, cũng chỉ có thể tồn tại như một lực lượng cách mạng có hiệu quả, khi họ có thể liên minh với một bộ phận quan trọng của tầng lớp trí thức tư sản. Ngược lại, trào lưu tư sản chỉ có thể thực hiện vai trò lịch sử của mình để phá vỡ hệ thống phong kiến, khi phần lớn bộ phận của họ vẫn còn duy trì mối liên kết chặt chẽ với quần chúng đông đảo ở thành thị cũng như nông thôn. Không có điều gì có thể đạt được nếu loại bỏ một trong hai yếu tố kể trên[9].

Nhận xét ở trên chúng ta có thể kiểm chứng qua những sự kiện sau đây. Trong tháng bảy năm 1789, đúng vào cao điểm của cuộc khủng hoảng dẫn đến cách mạng, quan tâm tức thời trước mắt của quần chúng đông đảo hoàn toàn trùng hợp với bộ phận chủ chốt của tầng lớp tư sản trí thức, thậm chí cả một bộ phận nhỏ của giai cấp quý tộc và tăng lữ vốn trước đây được ưu đãi. Liên minh này trở thành sức mạnh thúc đẩy sự bùng nổ cách mạng. Tuy nhiên, dù giới tư sản đã thành công trong việc tự đứng lên thành lập quốc hội của nhân dân, nhưng vua Louis XVI chỉ ký giấy thừa nhận tính chính danh sau khi ngục Bastille bị nhân dân chiếm đóng. Những tháng sau đó, tuy quốc hội đã biểu quyết những đạo luật tự do dân chủ, nhưng phải nhờ cuộc biểu dương lực lượng của 6.000 phụ nữ chợ cá Paris, ngày hôm sau tăng lên 20.000, lực lượng quần chúng này mới có thể ép vua Louis XVI chịu ký giấy ban hành các đạo luật, thừa nhận tuyên ngôn nhân quyền và rời cung điện Versailles để vĩnh viễn trở về Paris chịu giam lỏng ở cung điện Palais des Tuileries, đánh dấu ngày chấm dứt sự tồn tại của Vương triều quân chủ, đó là ngày 6 tháng 10 năm 1789.

Có thể kết luận rằng, mặc dù cách mạng Pháp về cơ bản mang tính chất một cuộc cách mạng tư sản, nhưng cuộc cách mạng đó chỉ có thể đạt đến thành công nhờ liên minh chặt chẽ giữa nông dân thợ thuyền và tầng lớp tư sản để chống lại hai tầng lớp được ưu đãi là tăng lữ và quý tộc. Qua hoạt động của liên minh này, một số nông dân thợ thuyền hưởng được những lợi thế của nếp sống tư sản, nhưng số đông thì vẫn đứng bên lề sau khi cách mạng thành công. Đó là một tính chất đặc thù mà chúng ta chưa thấy trong cuộc cách mạng huy hoàng ở Anh năm 1688, không thấy trong cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, và cũng không thấy trong cuộc cách mạng tháng mười năm 1917 ở Nga[10].

Bên cạnh những thành quả về chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng, chúng ta cũng không nên quên một thành quả quan trọng khác, mà tinh thần của nó còn có ảnh hưởng kéo dài đến hôm nay, đó là thành quả về khoa học, kỹ thuật, kinh tế và giáo dục, vốn dĩ là nhân tố quyết định để xây dựng phồn vinh lâu dài cho nước Pháp.

Cuộc cải tổ quan trọng mang tính quyết định là sự hợp nhất năm Hàn lâm viện Hoàng gia vốn có từ thế kỷ 17, để thiết lập một định chế duy nhất là Học viện Pháp quốc (Institut de France) vào tháng 10 năm 1795, đóng vai trò là một học viện có chất lượng hàng đầu cho tới hôm nay. Năm Hàn lâm viện Hoàng gia trước đó là: Hàn lâm viện Pháp (Académie de France), Hàn lâm viện Nghệ thuật (Académie des Beaux-Arts), Hàn lâm viện Văn khắc và Văn học Mỹ thuật (Académie des Inscriptions et Belles-Lettres), Hàn lâm viện Khoa học (Académie des Sciences), Hàn lâm viện Khoa học Đạo đức và Chính trị (Académie des Sciences Morales et Politiques).

Không chỉ là danh xưng và cơ cấu tổ chức, Học viện Pháp quốc tiến hành một cuộc cải tổ sâu rộng hệ thống nghiên cứu và giáo dục. Hàng loạt học giả tiếng tăm, mà trước đây bị gạt bên lề chỉ vì họ không thuộc thành phần quý tộc, nay được nắm những vai trò quan trọng để định hướng đi lâu dài cho các ngành khoa học, nghệ thuật và giáo dục toàn quốc. 

Một trong những thành quả quan trọng của Học viện Pháp quốc là tích cực bảo trợ về tài chính và học thuật cho dự án tiêu chuẩn hóa hệ thống đo lường metric. Hệ thống này đã được bắt đầu từ năm 1791 bởi Hội đồng Metric, nay với sự bảo trợ của Học viện Pháp quốc, dự án được hoàn thành vào năm 1799, định ra tiêu chuẩn mới về đo lường dựa trên cơ sở metric mà khắp nơi trên thế giới còn dùng cho đến ngày nay, và chắc hẳn còn sử dụng lâu dài sau này. Trong chương “Cách mạng Khoa học trong Thế kỷ 18”, chúng ta đã đề cập đến chủ đề này.

Học Viện Pháp Quốc (Institut de France)

Để tạm kết thúc chương này, xin mượn lời tổng kết rất gãy gọn của sử gia hàng đầu nước Anh, Eric John Hobsbawm: “Nếu kinh tế thế giới trong thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp xuất phát từ Anh, thì chính trị và ý thức hệ của thế giới được định hình bởi cách mạng Pháp. […] Người Pháp đã khởi động cuộc cách mạng và khoác cho nó những ý tưởng và lý tưởng dẫn đường, qua đó tinh thần “tam tài[11]” đã trở thành biểu tượng của hầu hết các quốc gia đang vươn lên. Nền chính trị của châu Âu, thực chất cũng là của thế giới, trong khoảng thời gian gần 130 năm, từ 1789 đến 1917 chủ yếu là cuộc đấu tranh để bảo vệ hoặc chống lại các nguyên lý của cách mạng Pháp[12]”.

Thiết tưởng cũng cần bổ sung thêm: Trong cuốn sách nổi tiếng của Thomas Piketty – Tư bản và ý thức hệ (Capital et idéologie) – chúng ta cũng có thể đồng ý nhiều biện giải của ông về cuộc cách mạng Pháp. Thomas Piketty xem di sản quan trọng của cách mạng Pháp là sự mở đường đến phong trào đấu tranh cho bình đẳng xã hội được phát triển mạnh mẽ, nhưng đồng thời, những đạo luật kinh tế ngay sau đó đã tạo một bước ngoặt làm tăng tầm quan trọng của ý niệm “tài sản tư nhân”, đấy là chưa kể, nền kinh tế tự do theo tinh thần “laissez-faire” đã dẫn chủ nghĩa tư bản đến sự phát triển mất kiểm soát trong thế kỷ 19, mà hậu quả xã hội đã trở thành vấn nạn lớn của thời đại. Theo Piketty, mặc dù các đặc quyền của giới quý tộc và tăng lữ đã chấm dứt, nhưng cuộc cách mạng Pháp cũng dẫn đến việc thần thánh hóa tài sản tư nhân. Nó trở nên bất khả xâm phạm và do đó ảnh hưởng đến sự phát triển của sự bất bình đẳng xã hội kéo dài cho đến ngày nay.

Trên nhãn quan một người có quan tâm đặc biệt đến sự bất bình đẳng, Thomas Piketty phân tích cách mạng Pháp trong bối cảnh đó và ca ngợi thành quả lớn lao về sự bình đẳng giai cấp, đó là sự bình đẳng giữa tầng lớp quý tộc, tăng lữ và tầng lớp thứ ba, mà bộ phận quan trọng nhất là tầng lớp tư sản và trung lưu trí thức. Tuy thế, ý niệm mới về tài sản tư nhân cũng đóng vai trò trung tâm mới. Theo Piketty, sự thay đổi này có tác động lâu dài đến sự phát triển bất bình đẳng xã hội, vì cuộc cách mạng đã khẳng định ý tưởng về “quyền tự nhiên” đối với tài sản tư nhân, tức là một loại quyền bẩm sinh và bất khả xâm phạm. Dưới góc nhìn đó, Piketty coi cách mạng Pháp là một sự phát triển lịch sử mơ hồ. Một mặt, nó mang lại những tiến bộ quan trọng về bình đẳng và tự do. Mặt khác, nó củng cố tầm quan trọng của tài sản tư nhân, yếu tố vừa là nhân vừa là quả của tình trạng bất bình đẳng ngày càng lớn cho đến ngày nay, và xem ra tình trạng bất bình đẳng ngày càng tồi tệ hơn, khó ai dám chắc là nó sẽ được khắc phục trong thế kỷ 21 này.

***

Để kết luận, xin làm một tóm tắt các di sản của cách mạng Pháp với cách trình bày ngắn gọn, giản dị bằng từ khóa và không diễn giải:

Thứ nhất: Chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế. Việc bãi bỏ chế độ quân chủ vào năm 1792 và vụ hành quyết Louis XVI vào năm 1793, là những biểu tượng cho sự chuyển tiếp từ chế độ quân chủ chuyên chế, chuyển sang chế độ đại nghị, khởi đầu quá trình chuyển đổi sang chế độ cộng hòa và đặt ra những tiêu chuẩn mới cho hệ thống nhà nước hiện đại. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền đã củng cố tư tưởng về chủ quyền nhân dân, chế độ chính quyền chuyên chế đã mất đi tính chính danh ở Pháp và nhiều nước châu Âu.

Thứ hai: Chấm dứt chế độ phong kiến, xóa bỏ giai cấp quý tộc. Chế độ phong kiến, ​vốn đã thống trị xã hội Pháp trong nhiều thế kỷ, vĩnh viễn chấm dứt với đạo luật ngày 4/8/1789. Nông dân được giải phóng khỏi chế độ nông nô, khỏi thuế nông dân và chế độ điền chủ. Đồng thời, giai cấp quý tộc bị xóa bỏ, mở đường cho một trật tự xã hội hiện đại và công bằng hơn.

Thứ ba: Chấm dứt sự can thiệp của Giáo Hội vào chính trị quốc gia. Quá trình thế tục hóa ở Pháp bắt đầu từ đạo luật năm 1790 để hạn chế nghiêm ngặt quyền lực của Giáo hội. Tài sản của nhà thờ bị quốc hữu hóa và giáo sĩ phải tuyên thệ trung thành với hiến pháp. Dù những biện pháp này đã gây ra sự phản kháng ở các vùng nông thôn, nhưng cuộc cách mạng đã đặt nền móng cho một xã hội thế tục, trong đó tôn giáo và nhà nước được tách biệt hoàn toàn.

Thứ tư: Sự vươn dậy của tầng lớp tư sản. Cách mạng Pháp đã củng cố giai cấp tư sản thành một lực lượng chính trị và kinh tế mới. Thông qua những đạo luật tiến bộ, phân phối lại đất đai, cải tổ thuế khóa, xóa bỏ giai cấp quý tộc, xóa bỏ các đặc quyền của tăng lữ, giai cấp tư sản đã có thể khẳng định được vị thế của mình trong kinh tế và chính trị. Giai cấp tư sản đã đảm nhận vai trò lãnh đạo trong hệ thống hành chính và tư pháp. Sự phát triển này đánh dấu bước tiến quan trọng hướng tới chủ nghĩa tư bản và cơ cấu kinh tế hiện đại. Xu hướng này trở nên phổ biến trên bình diện quốc tế, từ đó định hình lịch sử loài người trong thế kỷ 19 và các thế kỷ về sau cho đến hôm nay.

Thứ năm: Thiết lập trật tự xã hội mới với nhân quyền và quyền công dân. Một trong những văn kiện quan trọng nhất là „Tuyên ngôn Nhân quyền và quyền công dân“ (Déclaration des Droits de l’Homme et du Citoyen) ban bố ngày 26/8/1789, từ đó chi phối nội dung hiến pháp. Luật pháp thừa nhận tất cả những quyền tự do phổ quát, bình đẳng giữa người và người, quyền sở hữu tài sản v.v… Bản tuyên ngôn này đã đặt nền tảng cho các nền dân chủ hiện đại và các nhà nước hợp hiến trong đó, các quyền tự do cá nhân được đảm bảo.

Thứ sáu: Kỷ nguyên mới về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giáo dục. Quyết định quan trọng nhất trong lĩnh vực học thuật là sự hợp nhất các Hàn lâm viện Vương triều để xây dựng nên Học viện Pháp quốc. Kể từ đây, phương hướng, nội dung nghiên cứu và cơ chế điều hành các hoạt động nghiên cứu và giáo dục được cải tổ tận gốc, làm nền tảng cho sự phát triển mọi ngành nghề như khoa học, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ thuật.

Thứ bảy: Cải tổ hệ thống luật pháp và thiết lập bộ luật dân sự. Một trong những thành tựu quan trọng nhất là công trình cải tổ hệ thống luật pháp, trong đó việc ra đời bộ Luật Dân Sự (Code Civil des Français) năm 1804 là điểm uốn quan trọng của hệ thống luật pháp dân chủ trên lục địa châu Âu. Nếu trước đây, chế độ phong kiến chỉ thay đổi về mặt chính trị, thì giờ đây nó thực sự chấm dứt bởi pháp luật, không thể đảo ngược được. Bộ Luật Dân Sự được xem là một trong những thành tựu quan trọng nhất trong lịch sử nước Pháp và tạo thành nền tảng cho nhiều hệ thống luật pháp hiện đại trên thế giới.

Thứ tám: Phong trào cách mạng lan rộng khắp nơi. Kể từ hơn một thế kỷ trước, những sáng kiến tiến bộ của trào lưu khai sáng đã trở thành viễn kiến chung cho giới trí thức trung lưu, nhưng người ta vẫn chưa tìm thấy một con đường để thực hiện. Cách mạng Pháp đã truyền cảm hứng cho người dân khắp nơi trên thế giới đứng lên đấu tranh cho tự do, dân chủ và bình đẳng xã hội. Ở châu Âu là sự sụp đổ của các chế độ chuyên chế, thực hiện quyền tự quyết. Ở châu Mỹ Latinh là sự vươn dậy của phong trào giành độc lập chống lại các thế lực thực dân. Làn sóng cách mạng khắp nơi là một trong những hậu quả sâu rộng nhất, làm thay đổi cấu trúc chính trị, xã hội và kinh tế trên toàn thế giới.

Thứ chín: Thay đổi cấu trúc chính trị châu Âu. Cho đến hậu bán thế kỷ 18, ngoại trừ Anh, còn lại tất cả các nước khác ở châu Âu đều là quân chủ chuyên chế. Cách mạng Pháp đã thay đổi cấu trúc chính trị ấy. Phong trào cách mạng đòi hỏi quyền tự do dân chủ và cải cách xã hội ngày càng mạnh, nhất là ở Đức và Ý. Trong lúc các nước cố gắng chống lại cấu trúc mới ở Pháp, kể cả dùng biện pháp chiến tranh, thì cuộc chiến tranh xâm lược của Napoléon đã thay đổi cơ bản cán cân quyền lực ở châu Âu, và đi liền với nó, khái niệm chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa dân tộc cũng phát triển mạnh, và thực sự định hình vào thế kỷ 19. Tuy nhiên, chính điều này là gốc rễ của các cuộc chiến tranh bành trướng thuộc địa và chiến tranh phân chia quyền lực ở châu Âu, mà đỉnh điểm là hai cuộc Thế chiến kinh hoàng vào tiền bán thế kỷ 20.

***

Từ các phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, cách mạng Pháp năm 1789 có thể không phải là một biến cố riêng lẽ của thời đại, nhưng nó có những tính chất căn cơ hơn bất cứ cuộc cách mạng nào khác, và vì thế hậu quả nó để lại cho loài người cũng vô cùng sâu sắc. Đó là một biến cố phi thường chưa hề có trước đó và cũng sẽ không bao giờ xuất hiện lại trong những thế kỷ về sau.

Chỉ riêng lực lượng làm cách mạng đã là một yếu tố phi thường. Lực lượng đó bao gồm những thành phần yếu thế nhất, và không có chút quyền lực chính trị nào trong xã hội. Họ không có vũ khí nào khác hơn là tư tưởng và ý chí cách mạng. Họ không được quân đội cũng như cảnh sát hỗ trợ, nhưng họ có năng lực trí tuệ để lật đổ chế độ cũ với tốc độ vũ bão, để xây dựng một chế độ khác mang tính biến đổi hệ hình, mà cả thế giới ngưỡng mộ, noi theo trong nhiều thế kỷ về sau.

Đấy là chưa kể những thành quả về thể chế chính trị, mô hình nhà nước, về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, giáo dục v.v…

./.

Tôn Thất Thông, cặp nhật tháng 8/2025

Xem Video bài biên khảo này ở đây:

Trở về trang chủ
Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông

Tài liệu tham khảo
  1. Barudio, Günter: Das Zeitalter des Absolutismus und der Aufklärung 1648-1779. ISBN 3-596-60025-1. (Thời đại quân chủ chuyên chế và khai sáng). Fischer Weltgeschichte Band 25.
  2. Brinton, Crane (1), Christopher, John B. và Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present. ISBN 0-13-389593-9. (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay).
  3. Brinton, Crane (2): The Anatomy of Revolution (Mổ xẻ các cuộc cách mạng). Vintage Books 1965.
  4. Châtelet, François chủ biên và nhiều tác giả: Geschichte der Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng). ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).
  5. Durant, Will và Ariel (3): Das Zeitalter Voltaires (Thời đại Voltaire). Kulturgeschichte der Menschheit – Band 14. ISBN 3-548-36114-5. (Elinor Lipper dịch từ tiếng Anh: The Story of Civilization, Vol. IX).
  6. Durant, Will và Ariel (4): Am Vorabend der Französischer Revolution (Đêm trước của cách mạng Pháp). Kulturgeschichte der Menschheit – Band 16. ISBN 3-548-36116-1. (Leopold Völker dịch từ tiếng Anh: The Story of Civilization, Vol. X).
  7. Gaxotte, Pierre: Die Französische Revolution (Cuộc cách mạng Pháp). Bản dịch của Otto Watzke từ nguyên tác tiếng Pháp: L’histoire de la révolution Française. ISBN 3-8082-0035-9.
  8. Guizot, François: The History of Civilization in Europe (Lịch sử Văn minh châu Âu – William Hazlitt dịch từ tiếng Pháp: Histoire Générale de la Civilisation en Europe). Penguin Books 1997.
  9. Hartig, Paul: Die Französische Revolution im Urteil der Zeitgenossen und der Nachwelt (Cách mạng Pháp dưới phán xét của người đương thời và hậu thế). ISBN 3-12-425400-7
  10. Hazard, Paul (2): European Thought in the Eighteenth Century (Tư tưởng Châu Âu thế kỷ 18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ tiếng Pháp: La Pensée européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).
  11. Hinrichs, Ernst chủ biên và nhiều tác giả: Kleine Geschichte Frankreich (Tóm tắt lịch sử Pháp). ISBN 978-3-89331-663-2.
  12. Hobsbawm, Eric J. (2): The Age of Revolution. ISBN 978-0-349-10484-3. (Thời đại cách mạng)
  13. Hogen, Hildegard và Ban biên tập DIE ZEIT: Welt- und Kulturgeschichte Band 10 – Zeitalter der Revolution (Lịch sử văn hóa và thế giới, Bộ 10 – Thời đại Cách mạng). ISBN 3-411-17600-8.
  14. Lösche, Peter: Länderbericht USA (Tường trình về quốc gia Hoa Kỳ). ISBN 978-3-89331-851-3 – Trung tâm Giáo dục Chính trị Liên bang.
  15. Pleticha, Heinrich (1) chủ biên và nhiều tác giả: Aufklärung und Revolution – Europa in 17. und 18. Jahrhundert (Khai sáng và Cách mạng – Châu Âu trong thế kỷ 17 và 18). ISBN 3-577-15008-4 (Bertelsmanns Weltgeschichte – Band 8).
  16. Schmitt, Eberhard chủ biên và nhiều tác giả: Die Französiche Revolution – Anlässe und lanfristige Ursachen (Cách mạng Pháp – Biến cố khởi đầu và những nguyên nhân sâu xa). ISBN 3-534-05014-2.

Ghi chú:


[1] Xem E. Schmitt trang 13.

[2] Xem E. Hobsbawm, trang 82.

[3] Déclaration des Droits de l’Homme et du Citoyen

[4] Xem P. Gaxotte trang 57.

[5] Xem E. Hobsbawm (2) trang 79.

[6] Xem P. Gaxotte, trang 57.

[7] Xem E. Hinrichs, trang 282.

[8] Xem E. Hobsbawm (2), trang 74.

[9] Xem E. Schmitt, trang 168.

[10] Xem E. Schmitt, trang 159.

[11] Lá cờ “Tam tài” ba màu tượng trưng cho bình đẳng (màu xanh), tự do (trắng), huynh đệ (đỏ) – nguyên tiếng Pháp là Liberté, Égalité, Fraternité – là tinh thần cốt lõi của cách mạng Pháp. Lá cờ Tricolore (xanh trắng đỏ) trở thành quốc kỳ của Pháp trong khi cuộc cách mạng còn tiếp diễn.  

[12] Xem Hobsbawm (2), trang 73.