Trang chủ » THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – LÝ TÍNH VÀ NIỀM TIN TÔN GIÁO

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – LÝ TÍNH VÀ NIỀM TIN TÔN GIÁO

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Tác giả: Tôn Thất Thông, tháng 4/2024

Chúng ta hãy bắt đầu từ giả sự thuần phục và suy luận ở một trình độ mới. Vạn vật đã đạt đến một đỉnh điểm, nơi mà không ai phân biệt giữa tín đồ Kitô và Do Thái giáo, người Thổ, cộng đồng ngoại đạo. Niềm tin tôn giáo đã mất tất cả tác dụng đến đạo đức, luân lý. […] Kitô giáo không còn lại gì ngoài những hình thức và thành kiến ​​bên ngoài, đã biến con người thành thú vật bằng cách tước đoạt quyền tự do sử dụng quyền phán xét của họ và bóp nghẹt ngọn lửa lý tính bên trong họ[1].

Baruch de Spinoza, 1670

***

Trong bối cảnh lịch sử châu Âu suốt gần hai ngàn năm trước, triết học cổ đại và thần học đã độc chiếm môi trường học thuật trong việc quảng bá tri thức và hướng dẫn tư tưởng đại chúng. Cả hai lực lượng tinh thần này nương tựa nhau để cộng sinh. Định chế duy nhất để đào tạo học giả lúc ấy là các tu viện thuộc quyền quản lý của Giáo hội Kitô.

Cho đến thế kỷ 15, Thượng Đế luôn luôn đóng vai trò trung tâm trong đời sống tinh thần của mọi lớp người trong xã hội châu Âu. Ngay cả đại thi thánh người Ý từng nổi loạn chống Giáo hội, Dante Alighieri trong tuyệt phẩm“Thần khúc[2]”, vẫn xem Thượng Đế, thiên đường và địa ngục là những biểu tượng trường tồn bất tử. Qua thời gian, đến khi vai trò của Giáo hội bắt đầu lung lay, các nhà thần học vẫn cố gắng lý giải sự tồn tại quyền lực của các lãnh chúa và Vương triều là “ân sủng của Thượng Đế”. Khẩu hiệu “Thượng Đế là chân lý” ít người dám đặt thành đối tượng để phản biện. Tình trạng tinh thần ấy, nếu so sánh với tình trạng trong các chế độ toàn trị ngày nay, thì cũng chưa hẳn ai hơn ai kém.

Nhưng bước sang thế kỷ 17, ngay từ giai đoạn sơ kỳ của thời đại khai sáng, mọi chuyện đã thay đổi một cách cực đoan. Đầu tiên là John Locke, tiếp đến là David Hume, những triết gia người Anh dù rất sùng đạo cũng lên tiếng để mở ra một mặt trận đấu tranh chống lại sự thống trị của thần học. Họ cho rằng, các sáng kiến nảy sinh trong tư tưởng con người không phải là chân lý được Thượng Đế gieo trồng, mà các ý niệm của con người được thành hình là kết quả của cảm nhận và hoạt động tinh thần của chính họ[3]. Vai trò của Thượng Đế như là hiện thân của chân lý được đặt lên bàn để mổ xẻ cẩn thận.

Khi Voltaire dương cao khẩu hiệu đấu tranh “Hãy nghiền nát phường vô lại[4]”, tính chất cuộc đấu tranh giành chân lý bước qua một khúc ngoặt quan trọng. Tư tưởng đấu tranh không khoan nhượng của Voltaire đối với Giáo hội Thiên chúa La Mã đã thổi một luồng gió mới vào môi trường học giả, chi phối tinh thần và thái độ của họ trong những cuộc bút chiến chống lại các thế lực thần quyền.

Sức đẩy chống lại tư tưởng thủ cựu của các học giả thần học ngày càng mạnh mẽ hơn. Làm theo tinh thần của Voltaire, người ta không hề tiết kiệm những ngôn từ không mấy đẹp đẽ để tặng cho quan chức Giáo hội vốn dĩ đang quản lý những hoạt động giáo dục tư tưởng trong các tu viện, một định chế văn hóa mang tính cạnh tranh với các trường đại học, công cũng như tư, mới được mở thêm sau này kể từ thời hậu trung cổ.

Đến khi nhà tư tưởng đa năng người Pháp, Denis Diderot hoàn tất bản phác thảo đầu tiên về dự án “Bách khoa Toàn thư” với sự tham dự sau cùng của hơn 150 học giả, quy tụ thành phần tinh hoa của giới trí thức châu Âu đương thời, thì cuộc đấu tranh giành chân lý xem như đã đến hồi chung cuộc. Tri thức không còn là tài sản và ân huệ của Thượng Đế ban phát cho một lớp người nào đó. Các học giả của Bách khoa Toàn thư đều nhận định rằng, tri thức là tài sản chung của nhân loại, cần được và sẽ được tiếp cận bởi tất cả mọi người, không phân biệt giàu hay nghèo, có nhà cửa ruộng đất hay không, thuộc dòng họ gia tộc nào. Tri thức kể từ đây đã trở thành sức mạnh, và một số quyền lực khác bắt đầu sợ hãi trước tri thức[5].

Sự đóng góp của Bách khoa Toàn thư vào tiến trình phát triển văn minh phương Tây thật khó lòng miêu tả được. Nó góp phần chấm dứt tình trạng độc tôn về trau dồi tư tưởng và thu thập tri thức của hệ thống thần học suốt hơn một thiên niên kỷ, mở đầu cho sự rút lui tất yếu của Giáo hội ra khỏi các định chế chính trị trong vòng chưa đến 100 năm sau.

Trong quan hệ với quyền lực chính trị, các học giả thế kỷ 17, nhất là thế kỷ 18, nhiều lúc hoang mang, vì bản thân họ không xác định được vị trí của mình. Nhưng trong lĩnh vực tôn giáo, họ có cảm nhận rõ ràng hơn. Họ không còn tin tưởng vào tôn giáo, vì nó tước đoạt sự kiểm soát nhân cách của chính bản thân mình. Đúng vậy, nhiều nhà tư tưởng khai sáng không chấp nhận hình thái và phong cách mà tôn giáo áp đặt lên đời sống con người, nhất là phong cách mà các quan chức Giáo hội tham quyền và tham nhũng áp đặt ý muốn của họ lên những giáo dân có niềm tin mù quáng[6]

Chưa kể đến những cuộc cách mạng dân chủ ở Hoa Kỳ và Pháp, cuộc đấu tranh giành chân lý giữa một bên là giáo sĩ thần học và bên kia là những triết gia khai sáng đã góp phần giải phóng sự tù túng về mặt tư tưởng cũng như sự thiếu cương quyết trong hành động. Immanuel Kant đã từng nói rằng: “Tôi đã đưa các vấn đề liên quan đến tôn giáo thành điểm chính của việc khai sáng, tức là lối thoát của con người ra khỏi tình trạng chưa trưởng thành do chính mình gây ra[7]”. Kant muốn khuyến cáo mọi người rằng, muốn khai sáng chính mình, mỗi người phải tìm cách thoát ra khỏi gông cùm mà hàng giáo sĩ đã áp đặt lên vai giáo dân từ nhiều thế kỷ.

Cuộc đấu tranh tuy không dùng bạo lực nhưng rất ồn ào sôi động như những cuộc chiến. Và thực chất của trào lưu này là những trận chiến của ngòi bút – chống lại đao kiếm, kiểm duyệt và chống những người đã bẻ cong ngòi bút. Trong các trận bút chiến, tính châm biếm, lý luận uyên bác hoặc phê phán đều được sử dụng để đả kích tình trạng tối tăm, ngu dốt và độc đoán. Sự thể hiện rõ ràng và cực đoan nhất là ở Pháp, nơi mà các triết gia dùng những lý luận sắc bén nhất để chống lại Giáo hội và Vương triều chuyên chế. Các thế lực này trả thù lại bằng cách kiểm soát, hành hạ những người cầm bút và các nhà xuất bản thông qua chỉ mục sách cấm[8] của Giáo hội, rồi thêm cơ quan kiểm duyệt, công an cảnh sát, tòa án và ngay cả với ngục tù. Voltaire, Diderot, Rousseau và nhiều triết gia khác đã bị giam cầm hoặc phải lưu vong qua các nước khác[9].

Tuy thế, các học giả khai sáng cũng không hề chùn bước, khi ý thức đã trở thành động lực để họ sẵn sàng hành động, vì theo họ, “hành động của chúng ta chỉ do một mình chúng ta quyết định. Con người sẽ trở thành nô lệ, khi anh ta không dám tự đào luyện và làm chủ đam mê chân chính của mình [10]”. Cũng nhờ thế mà lịch sử cuối cùng đã đứng về phía lẽ phải. Tư tưởng mới và sáng kiến mới đã trở thành sức mạnh của mọi lớp người trên đường tranh đấu để đưa cả lục địa vượt qua hệ thống cổ hủ và khô cứng của thời hậu trung cổ, để hướng đến một viễn tượng đầy tự do, công bằng và huynh đệ[11], cho dù viễn tượng đó phải đợi gần một thế kỷ sau mới trở thành hiện thực.

Kể từ cuối thời trung cổ, đâu đó ở cuối trào lưu phục hưng và bắt đầu thời cận đại, triết học rẽ vào một khúc quanh mới, thoát ly khỏi các quy ước của thần học Kitô. Hầu hết các triết gia đều là tín đồ sùng đạo, nhưng tri thức của họ không còn được xếp bên dưới niềm tin tôn giáo. Người ta nhận thức rằng, tri thức và niềm tin có thể bổ sung cho nhau, nhưng chúng cần được xử lý độc lập với nhau. Triết học cố gắng sử dụng lý tính như là phương tiện duy nhất để đi tìm nền tảng cho một hệ thống nhận thức vững chắc hơn, xác định một cách thuần lý các khái niệm quan trọng như quốc gia, các hoạt động luân lý đạo đức[12].

Sự khởi đầu vững chắc đó thực ra đã bắt đầu từ thế kỷ 15 và 16. Sau thời kỳ phát triển rực rỡ của trào lưu phục hưng khởi đầu ở Ý và sau đó lan rộng ra hầu hết các nước châu Âu, người ta chứng kiến một sự lột xác trong đời sống văn hóa thời đại mới với những con người mới. Lúc ấy, các học giả đã có một định hướng rất rõ rệt trên bước đường tách rời tri thức khỏi niềm tin tôn giáo mù quáng, dù rằng mọi học giả đương thời đều là những tín đồ Kitô sùng đạo.

Nhưng trong bối cảnh lịch sử của thế kỷ 15, khi chưa tới một phần mười dân chúng biết đọc, biết viết, thì những lý tưởng, ước muốn của giới học giả tiên phong cũng khó lòng thâm nhập được vào đám đông, những người mà lo lắng hàng ngày là ăn, mặc và mái nhà che mưa trú nắng. Họ không thể và cũng không có nhu cầu trau dồi kiến thức, hoặc nói giản dị hơn là, việc học đọc, học viết cũng không phải là nhu cầu thiết thân. Trong điều kiện xã hội đó, những dự tính lý tưởng của giới học giả cũng khó lòng lan tỏa vào đám đông để trở thành ý thức chính trị sống động, nói gì tới viễn tượng của một trào lưu cách mạng?

Sau hai thế kỷ, đến đầu thế kỷ 17, cấu trúc xã hội đã thay đổi. Mức sống người dân dù chưa phải là xa hoa, nhưng những bận tâm về vật chất đã giảm xuống đáng kể. Viễn kiến của tầng lớp học giả cũng đã khác, so với thời đại phục hưng.

Trong vòng nhỏ hẹp của những gương mặt lãnh đạo phong trào khai sáng, chúng ta có thể tìm thấy những thành tố của một cuộc cách mạng cực đoan về mặt tư tưởng để chống lại luồng tư tưởng khô cứng của thần học chính thống đã ngự trị trong xã hội suốt hơn một ngàn năm. Vũ khí mới mẻ của họ là thuyết phiếm thần (Pantheism), thuyết vô thần (Atheism) cũng như hữu thần (Deism), chủ nghĩa cộng hòa, tự do, dân chủ, chủ nghĩa duy vật v.v… Chúng ta cũng từng nghe Voltaire kêu gọi „hãy nghiền nát phường vô lại“ (écrasez l´infâme), câu nói đã làm cho Giáo hội tức giận và run sợ[13]. Đến khoảng giữa thế kỷ 17, không những hướng đi mà cả nội dung nghiên cứu triết học đã được định hình, ngày càng xa rời thần học, một xu hướng không thể đảo ngược được. Những khẩu hiệu tích cực của trào lưu khai sáng dần dần rõ nét: lý tính, lòng khoan dung, sự tiến bộ, tinh thần phê phán, tính tự chủ.

Đó là những chủ đề mà chúng ta cần khảo sát riêng rẽ, sâu sắc hơn. Chúng ta có thể bắt đầu bằng chủ đề lý tính.

***

Trường hợp tiêu biểu thứ nhất của quá trình sử dụng lý tính hoặc tri thức một cách tự chủ có thể thấy trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, bắt đầu đâu đó ở giữa thế kỷ 16, và nó dần dần trở thành một sức mạnh tinh thần không gì lay chuyển được. Đến giữa thế kỷ 17, sức mạnh ấy đã trở thành mối đe dọa thường xuyên đối với hàng giáo phẩm. Không còn nghi ngờ gì nữa, sức mạnh ấy đã làm sống dậy một mô hình tư duy hoàn toàn độc lập với triết lý thần học và Thánh Kinh. Từ đó, người ta nuôi dưỡng niềm hy vọng vô biên vào một nền triết học tự do hơn, có sự nối kết chặt chẽ với khoa học tự nhiên. […] Nói cách khác, nền triết học khai sáng và khoa học tự nhiên là bạn đồng minh khắng khít, và triết học tự nó cũng có thể được xem là một khoa học[14], một loại triết học vốn dĩ đã bị bỏ quên suốt cả hai ngàn năm kể từ thời văn minh Hy Lạp trước Công nguyên. Hơn thế nữa, triết học khai sáng đã trở thành phong cách suy nghĩ mang tính chuẩn mực của thời đại, là sự thông thái của con người thế tục, là ánh sáng của lý tính vốn dĩ có năng lực che khuất hào quang của các mặc khải thần thánh và ân sủng Thượng Đế.

Lý tính xuất phát từ sự tách rời triết học khỏi thần học, để xây dựng nền tảng cho sự trưởng thành, tính tự chủ của con người hòng thoát ra khỏi gông cùm mà người khác đã áp đặt, qua đó thu thập thêm nghị lực để hiểu và chế ngự thiên nhiên. Khai sáng, vốn dĩ chứa đựng thế giới quan phi tôn giáo, cố gắng đưa phương pháp luận của lý tính trở thành cội nguồn của mọi nhận thức, không những có thể hoàn tất nhiệm vụ của mình trong các công trình nghiên cứu toán và khoa học tự nhiên, mà còn có thể đặt ra những lề luật tổng quát cho luân lý, tôn giáo, lịch sử và chính trị[15].  

Tư tưởng ly khai của học giả khai sáng đối với thần học phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 17 và 18, nhưng thật ra sự phát triển đó có thể tìm thấy nguồn gốc sâu xa hơn. Từ thời cổ đại, Đấng Sáng Tạo là một khái niệm thiêng liêng không ai dám đứng ra phản bác. Thiên nhiên, và ngay cả con người đều do Đấng Sáng Tạo nhào nặn, chỉ tồn tại và phát triển theo ý muốn của Chúa. Cơ sở khoa học của ý thức hệ đó là thuyết địa tâm (geocentrism), xem quả đất và con người là trung tâm của vũ trụ, mà mọi hành tinh khác phải xoay chung quanh.

Đến năm 1543, nhà thiên văn Ba Lan, Nicolaus Copernicus xuất bản tác phẩm Về chuyển động vòng của các hành tinh[16] để công bố kết quả nghiên cứu của mình, xác định lại thuyết nhật tâm (heliocentrism). Thuyết này khẳng định rằng mặt trời, chứ không phải quả đất, là trung tâm của vũ trụ, và tất cả các hành tinh, kể cả quả đất và con người, đều xoay chung quanh mặt trời. Kể từ đó, vũ trụ quan của giáo lý Kitô và triết lý thần học trở nên đáng nghi ngờ, cả tri thức của người đại diện của Chúa trên trần gian, tức là Giáo Hoàng cũng đáng nghi ngờ không kém. Sau đó vài thập niên, những luận cứ khoa học từ công trình nghiên cứu thực nghiệm của Johannes Kepler và Galileo Galilei đã củng cố học thuyết của Copernicus. Trong tiến trình ấy, vũ trụ quan địa tâm, và gắn liền với nó là triết lý thần học càng bị đẩy lùi vào thế thủ.

Quá trình ly khai khỏi triết lý thần học thực sự trở thành một xu hướng không thể đảo ngược. Nó có thể được đánh dấu đâu đó ở giữa thế kỷ 17 với các công trình khai phá của hai nhân vật vĩ đại: khoa học gia Isaac Newton hoàn thiện thuyết nhật tâm của Copernicus bằng chứng minh toán học và vật lý; cùng thời, triết gia René Descartes trở thành người hoa tiêu của một tập thể ngày càng đông đảo các triết gia duy lý, xem lý tính, chứ không phải là niềm tin, là nguồn gốc của mọi nhận thức và tiến bộ. Kể từ đây, quá trình ly khai ngày càng tăng tốc.

Lý tính, luật tự nhiên và tiến bộ. Đó là những thuật ngữ đầu môi của ngưới châu Âu trong thế kỷ 18, trong thời kỳ cao điểm của thời đại khai sáng, khi mà người ta có lòng tin mãnh liệt rằng, lý tính có thể chữa lành mọi căn bệnh trong quá khứ và giúp họ kiến tạo một nhà nước lý tưởng, đạt đến nền hòa bình vĩnh cửu và một xã hội hoàn hảo. Lý tính tạo điều kiện cho con người khả năng khám phá luật tự nhiên, có khả năng điều hòa sự tồn tại của loài người, và sự tiến bộ sẽ được bảo đảm[17].

Vai trò của lý tính trong tiến trình phát triển tư tưởng được René Descartes mạnh mẽ quảng bá, và xem đối trọng của nó, tức niềm tin tôn giáo, là một khái niệm mơ hồ không có chút liên hệ gì với sự phát triển tư duy con người. Ông viết trong “Diễn ngôn về phương pháp” (Discours de la méthode) năm 1637 rằng, “Lý trí lành mạnh của con người là điều mà tốt nhất được phân bổ khắp nơi trong thế giới, vì như thế, mỗi người có thể yên tâm rằng họ đang chiếm hữu nó ở mức độ cần thiết. Năng lực có thể phán đoán, cũng như năng lực biết phân biệt đúng và sai là điều mà chúng ta gọi là lý trí lành mạnh, hay là lý tính. Và thật là thiếu sót, nếu chúng ta cứ giữ nó trong tinh thần, mà điều quan trọng nhất là biết sử dụng nó một cách tốt đẹp[18]

Nhưng nếu vì thái độ cương quyết đó mà gọi những học giả khai sáng là những người chống tôn giáo thì sai. René Descartes là người sùng đạo Thiên Chúa, mặc dù ông gọi hàng giáo phẩm tham quyền là “phường vô lại” (les infâmes). Hoặc nếu có ai cho rằng, học giả chống thần học là những người vô thần, hoặc gọi những người khác trong xã hội là người vô tôn giáo, thì cả hai luận cứ đó đều sai. Mặc dù sau cuộc cách mạng Pháp, phong trào trở lại tôn giáo được ít nhiều phục hồi, nhưng sau nhiều biến cố trong thời đại khai sáng, Kitô giáo không bao giờ có thể nắm lại vai trò lãnh đạo tinh thần trong đời sống văn hóa công cộng.

Một điều hết sức tích cực trong quá trình phát triển chống thần học là, khi tinh thần khai sáng càng thấm đậm trong xã hội, thì người ta thấy rõ rằng, những cuộc chiến tranh giữa các giáo phái Kitô đã vĩnh viễn chấm dứt, cũng không còn cảnh truy sát phù thủy một cách man rợ, hoặc những hình thức tàn bạo hơn, như việc công khai thiêu sống người phản đạo, cũng biến mất.

Trong thời đại khai sáng, con người, nhất là học giả dấn thân, có thể tiếp cận đến nhiều nguồn tri thức mới mẻ, và họ cũng trở nên nhanh chóng thông thái, một hiện tượng mang tầm vóc thế kỷ làm cho họ thông minh hơn, mạnh mẽ hơn và có đủ can đảm để thách thức giới tăng lữ. Suốt nhiều thế kỷ, linh mục là những người quyền lực nhất chiếm giữ độc tôn hệ thống truyền thông đại chúng thông qua nhà thờ và các định chế phụ thuộc. Họ cũng là những người độc chiếm mọi vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục từ thấp tới cao, ngoài ra còn nắm giữ độc quyền trong việc quảng bá thông tin, và họ cũng không ngần ngại sử dụng Giáo Hoàng để cấm những tác phẩm không phù hợp với thần học. Cho đến thế kỷ 16, học giả nào muốn sinh tồn và tự phát triển, không thể không chịu ép mình trong hệ thống hủ bại đó, cho dù vẫn phải chịu ít nhiều thua thiệt.

Các học giả khai sáng không dừng lại ở thái độ chống hàng giáo phẩm sa đọa, mà họ còn nghi ngờ cả trí năng của Thượng Đế, phê phán cả Thánh Kinh. Viện sĩ Paul Hazard nhận xét tư tưởng giới học giả thuở đó: Người ta trích dẫn Thánh Kinh để rao giảng khi họ cần sự thuần phục vâng lời. Mọi giáo điều và mê tín đều rút ra từ Thánh Kinh. Và nội dung của Thánh Kinh thực chất là gì, từ đâu? Không hề có một Đấng tiên tri ghi chép lại lời dạy của Chúa và diễn giải ý định của Thượng Đế, mà chỉ có những con người đáng thương tìm cách quãng bá những tri thức nghèo nàn bằng trí tưởng tượng và được minh họa thêm bằng một loạt các hình ảnh ấn tượng. […] Không hề có phép lạ. Vì thiên nhiên liên tục tuân theo một trật tự bất biến, cho nên nếu có chuyện gì xảy ra vượt khỏi các định luật, điều đó không phải là sự minh chứng cho tính toàn năng của Thượng Đế mà đó là một bằng chứng hiển nhiên rằng, Thượng Đế không hiện hữu[19].

Một trong những triết gia hăng hái nhất trong cuộc đấu tranh này là Pierre Bayle (1647-1705), nhà tư tưởng tiền phong trong trào lưu khai sáng Pháp. Trong tác phẩm nổi danh Từ điển Lịch sử và Phê phán[20] xuất bản năm 1697, ông đã cung cấp cho thời đại đó một kho vũ khí khổng lồ cho giới học giả đương thời, nhất là tinh thần hoài nghi và phê phán hệ thống siêu hình học. Đối với Bayle, lý tính và tôn giáo là hai khái niệm không có một điểm chung nào. Cũng chính Bayle là người châm ngòi cho ánh sáng của lý tính được tỏa sáng mà tinh thần của ông là mẫu mực cho trào lưu Bách khoa Toàn thư do Denis Diderot và D’Alembert thực hiện sau đó[21].

Lý tính chắc chắn là khái niệm rất quan trọng, có lẽ là quan trọng bậc nhất của trào lưu khai sáng. Đó là một khái niệm vượt ra ngoài hệ tư tưởng thần học và tất nhiên không liên quan gì đến các mặc khải thần thánh. Nó là cơ sở cho sự trưởng thành và tính tự chủ của con người để hiểu biết thế giới. Tinh thần khai sáng, với tính chất là hàm chứa một thế giới quan ở bên ngoài vòng cương tỏa của Giáo hội, cố gắng thực hiện việc biến phương pháp lý tính thành kim chỉ nam trên mọi nẻo đường đi đến nhận thức, chứ không riêng gì trong lĩnh vực toán học và khoa học tự nhiên. Tinh thần khai sáng còn có tham vọng đưa ra những quy luật tổng quát trong các lĩnh vực luân lý, đạo đức, tôn giáo, lịch sử và chính trị[22].

Mục tiêu trước hết của những triết gia khai sáng là, thông qua tri thức, giáo dục, nghiên cứu triết học và khoa học tự nhiên, họ muốn giải phóng con người ra khỏi gông cùm của non nớt, lầm lạc, thụ động, sợ hãi, mê tín, giáo điều ý thức hệ và bàn tay lạnh lùng của hàng giáo phẩm. Họ muốn tạo một không gian lành mạnh chan chứa niềm hy vọng vào một tương lai tươi đẹp hơn. Để đạt được mục tiêu đó, những người khai sáng hô hào mọi người tham gia hành động thực tiễn để đạt đến phồn vinh cao hơn, luật pháp công minh, chính quyền không hà khắc, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng và cũng không phải là điều cuối cùng, tính tự chủ đối với bản thân từng người[23]. Trong tinh thần đó, trào lưu khai sáng có thể xem là một loạt hoạt động có chủ ý của những con người có năng lực lý tính nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết của con người, để từ đó biến nhận thức về xã hội thành một ý thức chính trị sống động.

Trong bối cảnh lịch sử thế kỷ 17 và 18, khi Vương triều, giới quý tộc, Giáo hội và hàng giáo phẩm nắm mọi nguồn lực kinh tế quốc gia, đời sống con người bị lệ thuộc rất nhiều vào các thế lực ấy. Nhưng ngoại trừ những người vì chuyện mưu sinh, xu hướng chung là các học giả khai sáng không muốn làm công bộc cho Vương triều, cũng không muốn làm phát ngôn viên cho Giáo hội, bất kể thuộc giáo phái nào[24].

Trong bối cảnh đó, trào lưu khai sáng nói chung đã mang bất ổn đến cho trật tự vững chắc từ trước trong cấu trúc quyền lực của Giáo hội Kitô, của Vương triều và của giai cấp quý tộc. Vì thế, các nhà khai sáng có nhiều bạn và cũng không ít kẻ thù, nhưng dần dần trào lưu này đã trở thành một thị hiếu thời đại không thể cưỡng nổi[25]. Cuối cùng, phần thưởng xứng đáng cho họ là cuộc cách mạng dân chủ ở Pháp làm rung chuyển thế giới, khởi động sự tan rã của các chế độ phong kiến vốn đã ngự trị lâu dài trên lục địa. Cuộc cách mạng Pháp đã vĩnh viễn thay đổi đời sống chính trị tại châu Âu, đấy là chưa kể thành quả lớn lao đi kèm trên các lĩnh vực khác như văn chương, triết học, kịch nghệ, âm nhạc, giáo dục và nhất là khoa học, kỹ thuật và kinh tế.

Điểm giống nhau giữa các nhà khai sáng là tinh thần cổ vũ cho việc hành động theo lý tính thay vì thuần phục sự áp đặt tư tưởng của các cơ quan quyền lực, bất kể đó là quyền lực thế tục của Vương triều hay quyền lực thần quyền của các định chế tôn giáo. Trên thực tế, tinh thần ưa chuộng lý tính chưa hề bị triệt hạ kể từ thời cổ đại Hy Lạp, cũng không hề sút giảm trong giai đoạn ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh viện, thậm chí tinh thần ấy còn tăng thêm trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự nhiên trong thời kỳ hưng thịnh của chủ nghĩa nhân bản thế kỷ 15, 16. Nhưng phải đợi đến thế kỷ 17 và 18, những triết gia duy lý (Rationalist) mới thực sự đạt thành quả để lót đường cho tinh thần ưa chuộng lý tính được thăng hoa, với những đòi hỏi dũng cảm như tự do, bình đẳng cho mọi người trong xã hội. Không những họ từ chối các mặc khải thần thánh, mà hơn thế nữa, họ đòi hỏi tôn giáo phải tuân theo các quy luật của lý tính.

Có một tư tưởng khá phổ biến trong giới học giả thế kỷ 18 là, con người là một thực thể tiềm tàng có sẵn năng lực của lý tính[26]. Chỉ cần khơi nó dậy, quảng bá để nó trở thành một giá trị phổ quát. Nhờ năng lực của lý tính, con người có thể làm chủ bản thân, có thể phân biệt tốt và xấu, thiện và ác mà không cần núp vào một hình bóng siêu nhiên nào. Họ sẽ tự hướng dẫn mình đi tìm con đường đến hạnh phúc toàn mỹ, chứ không cần quan tâm đến chuyện cầu nguyện để xin chuộc tội và được cứu rỗi.

Ngay từ thập niên ba mươi của thế kỷ 18, các học giả đương thời đã đặt tên cho thời đại họ đang sống là thời đại của lý tính[27]. Và tên gọi này là sự biểu hiện của một xác tín có gốc rễ hết sức sâu xa của thời đại đó[28], ấy là tinh thần lạc quan cho tương lai và niềm tin vô biên rằng, con người có thể nhận thức được những nguyên lý tối hậu về vũ trụ, đồng thời cung cấp những hướng dẫn duy lý để định hướng hành vi đến những mục tiêu tốt đẹp.

Nhưng xác tín về năng lực của lý tính không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả tốt đẹp. Có lúc và có nơi, năng lực của lý tính dẫn đến những hệ lụy xấu xa, thậm chí bi thảm.

Thí dụ về hiệu quả tốt đẹp, thế kỷ 18 chứng kiến việc áp dụng rộng rãi phương pháp toán học của Descartes, Euler, Laplace, nhất là các định luật cơ học của Newton, từ đó nhiều sáng kiến kỹ thuật được tăng tốc thực hiện để tạo nên những công cụ hiệu quả, nâng cao trình độ sản xuất, mang thêm của cải cho xã hội, làm tăng trưởng phồn vinh cho con người. Trong lĩnh vực này, chúng ta thấy hiệu quả tốt đẹp nhiều hơn xấu xa.

Nhưng mặt khác, thế kỷ 18 cũng là thế kỷ của của cuồng loạn, chết chóc, của chuyển hóa cực đoan, của cách mạng mang tầm vóc thế kỷ. Ngay trong cuộc cách mạng Pháp, mâu thuẫn giữa tiến bộ và thoái bộ đã xuất hiện rất rõ rệt. Trước khi cách mạng xảy ra, Maximilien de Robespierre đã nhân danh lẽ phải với giấc mơ cải tạo xã hội khi đòi hỏi tự do báo chí, bãi bỏ chế độ nô lệ tại các thuộc địa, đòi quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi người v.v… Giấc mơ cao đẹp biết bao!

Nhưng sau đó, khi cách mạng đã thành công, thì cũng chính phe nhóm Jacobin dưới sự lãnh đạo của Robespierre đã nhân danh lẽ phải với tinh thần bảo vệ thành quả cách mạng để thanh trừng những người khác chính kiến mà họ gọi là “phản cách mạng”, và thiết lập chế độ độc tài khủng bố làm rối loạn nước Pháp suốt mấy năm liền. Nhà khai sáng tiền phong Marquis de Condorcet hoặc ông tổ của ngành hóa học hiện đại Lavoisier đều là nạn nhân của nhóm khủng bố đó. Nực cười thay, Robespierre là môn đệ trung thành của Jean-Jacques Rousseau, một nhân vật hàng đầu trong thế kỷ khai sáng ở châu Âu được giới học giả trọng vọng.

Một thí dụ thứ hai, Napoléon sau khi nắm quyền trong cuộc cách mạng Pháp cũng nhân danh lẽ phải để đi chinh phục các nước từ Tây sang Đông, xuống cả khu vực Bắc Phi. Các đế quốc châu Âu cũng nhân danh lẽ phải để đi chiếm thuộc địa khắp năm châu khi họ tự khoác cho mình sứ mệnh “đi khai hóa các giống dân lạc hậu”. Để đạt được mục đích làm giàu và phô trương sức mạnh, họ không từ một thủ đoạn tàn ác nào thí dụ như nạn buôn bán nô lệ, hoặc xóa sổ một giống dân ở các vùng thuộc địa.

Vì thế, khi nhận xét về năng lực của lý tính, chúng ta cần tỉnh táo, khách quan và nhìn với tinh thần phê phán. Người có tư tưởng khai sáng không phải là những người duy lý, xem lẽ phải là tất cả và đứng trên vạn vật. Họ lại càng không phải là người phản duy lý, phán đoán mọi chuyện dựa vào cảm tính, niềm tin và thuần phục quyền lực.

Người mang tư tưởng khai sáng thực chất là người phê phán, hiểu biết bản chất con người nhờ trí tuệ và sự thông minh. Họ muốn phân tích con người như một thực thể thuộc về xã hội và môi trường sống chung quanh. Sự hiểu biết đó là nền tảng vững chắc để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn[29]. Họ không chỉ là triết gia hay nhà tư tưởng như chúng ta thấy trong các cơ quan nghiên cứu, mà là đủ loại con người có mặt khắp nơi trong xã hội: văn thi sĩ, sử gia, ký giả, diễn viên, nhà hoạt động dân sự v.v… những người không những chỉ hiểu thế giới chung quanh nhờ phản biện và tranh luận, mà họ còn có niềm khao khát muốn thay đổi và cải thiện nó, và cũng sẵn sàng hành động để biến niềm khao khát thành hiện thực.

Với niềm tự tin vào năng lực của lý tính, con người trong xã hội nói chung và các học giả nói riêng có một niềm lạc quan vô biên về tương lai. Họ lạc quan không phải vì đời sống con người đã được sung túc đầy đủ hơn, cũng không phải vì chế độ chính trị bớt hà khắc hơn. Niềm lạc quan xuất phát chủ yếu từ cảm giác được giải phóng về tư tưởng và nỗi vui mừng của sự tự do rộng khắp sẽ đến trong tương lai gần, một loại cảm giác thuần khiết của cảm tính, phần nào mang tính chất ảo tưởng. Nhưng cũng nhờ tâm lý lạc quan mà con người trong thời đại khai sáng cảm thấy mạnh mẽ hơn, hăng hái hơn trong các hoạt động mang ý nghĩa cải tạo xã hội.

Mặc dù phải đợi đến thế kỷ 19, khái niệm giai cấp mới được Karl Marx khái quát hóa, nhưng những cuộc vận động trong thời kỳ khai sáng được soi đường bởi lý tính, đặc biệt là từ đầu thế kỷ 18, cũng biểu hiện ý thức giai cấp rõ rệt. Điều khác nhau căn cơ là, Karl Marx chờ đợi ở giai cấp vô sản một động lực cho cách mạng. Trong lúc đó, thời đại khai sáng làm rõ một kinh nghiệm cho tiến trình lịch sử loài người: động lực để khởi động cách mạng là giai cấp trung lưu tư sản trí thức, vừa có kiến thức, vừa có dũng khí để làm ngọn hoa tiêu dẫn đường cho các thành phần khác đi theo.

Với cuộc đấu tranh sinh tồn trong thời đại khai sáng, một bên là đủ loại người khác nhau cùng có tính chất chung là đang chiếm hữu của cải xã hội: đó là những lãnh chúa, sĩ quan cao cấp, tầng lớp quý tộc, tổng giám mục và hàng giáo phẩm cao cấp, thương gia bất chính; bên kia là giới học giả trong tay không chiếm hữu gì khác hơn là tri thức và sức mạnh của lý tính. Những học giả này sẵn sàng tham gia việc cải tạo xã hội, mặc dù họ biết rằng, mọi điều nguy hiểm có thể xảy ra cho bản thân, kể cả tù tội hay trả giá bằng mạng sống. Họ tự nhận mình là “người trí thức” và đặt cho mình một tính chất khác người: văn hóa phê phán là bản chất tự nhiên ở tầng trên cùng của các nấc thang giá trị[30] và cũng sẽ là phương tiện hữu hiệu để đạt đến mục đích.

Nhờ năng lực của lý tính trong con người thế kỷ 18, xã hội đã chứng kiến những chuyển hóa vĩ đại mang lại chủ yếu là tiến bộ cho con người. Khái niệm “tiến bộ” cũng là phát minh mới mẻ của thế kỷ 18. Học giả cổ đại chưa hề biết khái niệm này, hay ít ra là chưa biết đến những cải thiện liên tục trong quá trình tiến hóa qua hàng thế kỷ, hoặc thậm chí hàng thiên niên kỷ. Họ chưa ý thức rằng, điều kiện khách quan thường xuyên thay đổi, mà người cổ đại chỉ chấp nhận rằng, mọi sự chuyển hóa đều xảy ra theo chu kỳ, có lúc tốt hơn, cũng có lúc tồi tệ hơn. Con người thế kỷ 18 không những tin vào tiến bộ, họ bắt đầu xem tiến bộ là điều thiết yếu: Vạn vật sẽ phải tốt đẹp hơn, vì điều đó chính là bản chất của nó[31].

Niềm tin vào tiến bộ, xuất phát từ năng lực của lý tính, chính là động lực mạnh mẽ nhất đã tạo nên quá trình chuyển hóa không ngừng trong xã hội và những thành viên trong đó.

Nói tóm lại, cuộc giằng co giữa lý tính và niềm tin đã ngã ngũ vào hậu bán thế kỷ 18, để châu Âu bước vào một kỷ nguyên mới kể từ thế kỷ 19, trong đó các định chế thần quyền mất hết vai trò trong đời sống chính trị, và triết lý thần học không còn chỗ đứng trong thế giới học thuật. Kể từ đó, lý tính và tiến bộ chi phối hướng đi của lịch sử. Giới học giả châu Âu đạt đến kết quả đó không những nhờ vào tri thức và lẽ phải, mà còn nhờ vào hướng đi đúng đắn và phương pháp hành động hợp với quy luật phát triển của lịch sử.

Để kết thúc phần này, xin dùng một nhận xét của Viện sĩ Hàn lâm viện Anh, Roy Porter[32]: “Trên góc nhìn từ giới tinh hoa lãnh đạo, cũng như từ đám đông quần chúng, khai sáng có thể được xem như một đợt thủy triều đảo lộn hệ tư tưởng trong xã hội đương thời, xuất phát từ những hoạt động bên trong của chính xã hội đó, chứ không mang tính chất lật đổ của những người nổi loạn muốn đập tan trật tự có sẵn của xã hội”.

Châu Âu trong thế kỷ 17 và các nước độc tài chuyên chế ngày nay xem ra rất giống nhau. Trên góc nhìn đó, thì cách làm của học giả khai sáng là một bài học quý báu cho thanh niên trí thức nhìn vào và suy ngẫm.

Tôn Thất Thông, tháng 4/2024

Trở về trang chủ

Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông

Xem bài viết này trên Video:

Tài liệu tham khảo:

  1. Brinton, Crane; Christopher, John B. và Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present. ISBN 0-13-389593-9. (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay).

  2. Châtelet, François chủ biên và nhiều tác giả: Geschichte der Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng). ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).

  3. Durant, Will và Ariel (3): Das Zeitalter Voltaires (Thời đại Voltaire). Kulturgeschichte der Menschheit – Band 14. ISBN 3-548-36114-5. (Elinor Lipper dịch từ tiếng Anh: The Story of Civilization, Vol. IX).

  4. Gay, Peter: The enlightenment: An Interpretation. The science of freedom (Dẫn luận về khai sáng – Khoa học của tự do). ISBN 0-393-00875-4.

  5. Guizot, François: The History of Civilization in Europe (Lịch sử Văn minh châu Âu – William Hazlitt dịch từ tiếng Pháp: Histoire Générale de la Civilisation en Europe). Penguin Books 1997.

  6. Hampson, Norman: The Enlightenment – An evaluation of its assumptions, attitudes and values (Khai sáng – Đánh giá những giả thuyết, quan điểm và giá trị). ISBN 0-14-013745-9.

  7. Hazard, Paul (1): Die Krise des Europäischen Geistes 1680-1715 (Khủng hoảng lương tâm ở châu Âu 1680-1715). NXB Hoffmann und Campe Hamburg 1939 (Harriet Wegener dịch từ tiếng Pháp: La Crise de la Conscience Européenne 1680-1715).

  8. Hazard, Paul (2): European Thought in the Eighteenth Century (Tư tưởng châu Âu thế kỷ 18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ tiếng Pháp: La Pensée européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).

  9. Hirschberger, Johannes: Geschichte der Philosophie – Band II: Neuzeit und Gegenwart (Lịch sử triết học – Tập II: Thời cận và hiện đại). ISBN 3-933366-00-3). Có thể tham khảo thêm trọn bộ tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt: Lịch sử triết học Tập I & II – Bùi Văn Nam Sơn và tập thể dịch giả – NxB Tri Thức.

  10. Höffe, Otfried (I) chủ biên và nhiều tác giả: Klassiker der Philosophie I (Những triết gia kinh điển, Tập I). ISBN 3-406-08048-0.

  11. Im Hof, Ulrich: Das Europa der Aufklärung (Châu Âu trong thời đại khai sáng). ISBN 3-406-37091-8.

  12. Mann, Golo và Nitschke, August: Weltgeschichte Band VII – Von der Reformation zur Revolution (Lịch sử thế giới bộ VII – Từ cải cách tôn giáo tới cách mạng). ISBN 3-549-05017-8.

  13. Metzler Verlag chủ biên và nhiều tác giả: Philosophen (Những triết gia). ISBN 3-476-02026-6.

  14. Pleticha, Heinrich (1) chủ biên và nhiều tác giả: Aufklärung und Revolution – Europa in 17. und 18. Jahrhundert (Khai sáng và Cách mạng – Châu Âu trong thế kỷ 17 và 18). ISBN 3-577-15008-4 (Bertelsmanns Weltgeschichte – Band 8).

  15. Porter, Roy (1): Enlightenment – Britain and the creation of the modern world (Khai sáng – Anh quốc và sự thành lập thế giới hiện đại). ISBN 0-14-025028-X.

  16. Porter, Roy (2): Kleine Geschichte der Aufklärung (Lịch sử ngắn về Khai sáng – Ebba D. Drolshagen dịch từ tiếng Anh: The enlightenment, xuất bản 1990). ISBN 3-8031-2192-2.

  17. Schneiders, Werner (2): Zeitalter der Aufklärung (Thời đại khai sáng). ISBN 3-406-44796-1.

  18. Van Doren, Charles: Geschichte des Wissens. ISBN 3-764-35324-4. (Lịch sử của tri thức – Anita Ehler dịch từ tiếng Anh: A history of knowledge).

  19. Vorländer (1), Karl: Geschichte der Philosophie V: Philosophie der Neuzeit – Die Aufklärung (Lịch sử triết học V: Triết học hiện đại – Trào lưu khai sáng). ISBN 3-499-55281-7.

  20. Zimmer, Robert: Philosophie von der Aufklärung bis heute (Triết học từ thời đại khai sáng đến nay). ISBN 3-589-21499-6.

Ghi Chú


[1] Xem P. Hazard (1) trang 172-173 – Trong Tractatus theologico-politicus, 1670

[2] Divina Commedia.

[3] Xem H. Pleticha (1) trang 96.

[4] Voltaire kêu gọi “Écrasez l´infâme” để ám chỉ quan chức Giáo hội đã thoái hóa.  

[5] Xem H. Pleticha (1) trang 98.

[6] Xem R. Porter (2) trang 45.

[7] Immanuel Kant: “Beantwortung der Frage: Was ist Aufklärung”.

[8] Index Librorum Prohibitorum, được thành lập năm 1559 bởi Giáo hội La Mã, cho nên còn được gọi tắt là Index Romanus(Chỉ mục La Mã).

[9] Xem R. Porter (1) trang 72.

[10] Xem P. Hazard (1) trang 176.

[11] Khẩu hiệu của cách mạng Pháp năm 1789: “Liberté, Égalité, Fraternité

[12] Xem R. Zimmer trang 17.

[13] Xem R. Porter (2) trang 15.

[14] Xem W. Schneiders (2), trang 9-10.

[15] Xem G. Mann trang 469 – Fritz Schalk.

[16] Gốc tiếng La-tinh: De revolutionibus orbium coelestium

[17] Xem C. Brinton trang 618.

[18] Xem U. Im Hof, trang 145.

[19] Xem P. Hazard (1) trang 172-173.

[20] Dictionaire Historique et Critique, xuất bản năm 1697, sau đó được Gottsched dịch ra tiếng Đức.

[21] Xem J. Hirschberger trang 248.

[22] Xem G. Mann trang 469 – Fritz Schalk.

[23] R. Porter (2), trang 14.

[24] Đến thời điểm này, quá trình phân hóa thế giới Kitô xem như đã hoàn tất. Nó bao gồm hai giáo phái chính là Công giáo và Tin lành, cộng thêm nhiều giáo phái nhỏ vốn chủ yếu tồn tại ở Anh và thông qua họ, sau này phát triển mạnh ở Mỹ.

[25] U. Im Hof, trang 231-232.

[26] Tạm dịch từ: Vernunftbegabt – Talented for reason.

[27] Tạm dịch từ: Zeitalter der Vernunft – Age of reason.

[28] C. Van Dooren, trang 279.

[29] R. Porter (2), trang 11.

[30] F. Châtelet trang 14.

[31] C. Van Dooren trang 280.

[32] Xem R. Porter (2) trang 15-16.