Trang chủ » THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – THỜI ĐIỂM KHỞI ĐẦU VÀ CHẤM DỨT

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – THỜI ĐIỂM KHỞI ĐẦU VÀ CHẤM DỨT

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

Tác giả: Tôn Thất Thông, tháng 8/2024

Có lẽ là điều hợp lý, khi chúng ta xem trào lưu khai sáng là thời khắc đặc biệt của lịch sử châu Âu, là sự trưởng thành của trí tuệ của con người thế tục, khi tình trạng ngu muội từng bước bị đẩy lùi, phồn vinh xã hội ngày càng được nâng cao, và thừa hưởng thành quả của kỹ thuật in ấn để tự thành hình và phát triển một lực lượng xã hội tương đối độc lập [với các định chế có sẵn][1].

Giáo sư Roy Porter, Viện sĩ Hàn Lâm Viện Anh.

Trào lưu khai sáng châu Âu phát triển rực rỡ nhất trong thời gian ở giữa các cuộc cách mạng dân chủ lớn trên thế giới, đó là “cách mạng vinh quang[2]” tại Anh năm 1688, cách mạng Mỹ năm 1776 và cách mạng Pháp năm 1789. Đó là những thế kỷ huy hoàng, một khung thời gian hội tụ những gương mặt đặc sắc của nền văn minh hiện đại châu Âu. Các tác phẩm triết học và chính trị quan trọng nhất còn ghi lại dấu ấn cho đến hôm nay đều được ra đời trong các thế kỷ khai sáng, hoặc một thời gian ngắn trước đó. Định chế chính trị của các nước hiện đại hôm nay đều dựa vào hệ tư tưởng và lý thuyết nhà nước được phát sinh trong thời đại khai sáng. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên mang tính đột phá và đặt nền tảng cho nền khoa học và kỹ thuật hiện đại cũng được khám phá trong thời gian này.

Chúng ta thử kể vài thí dụ: Hai khảo luận về chính quyền của John Locke, xuất bản lần đầu năm 1690, đã tạo cảm hứng cho việc soạn thảo nội dung hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp và từ đó lan ra nhiều nước dân chủ khác ngày nay trên thế giới; Về tinh thần luật pháp của Montesquieu năm 1748 là sách gối đầu kinh điển của nguyên tắc phân quyền áp dụng trong các nền dân chủ lớn hiện nay; Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau xuất hiện năm 1762 như một hiệu lệnh cho cuộc cách mạng Pháp xảy ra 27 năm sau đó; Phồn vinh các quốc gia của Adam Smith năm 1776 chứa đựng những lý thuyết nền tảng của hệ thống kinh tế hiện đại, mang lại phồn vinh cho thế giới phương Tây, và cả loài người hiện nay; Phê phán lý tính thuần túy của Immanuel Kant năm 1781 mở đầu cho sự phổ biến rộng rãi nền triết học hiện đại, Bách khoa toàn thư gồm mười bảy tập của Denis Diderot và D’Alembert chủ biên với hơn 150 tác giả tiếng tăm đương thời v.v…

Ngoài ra, cũng cần ghi nhận một điểm uốn quan trọng trong lịch sử phát triển kỹ thuật ứng dụng là, nguyên lý hoạt động của máy hơi nước khám phá bởi James Watt nhận được bằng sáng chế năm 1769, bắt đầu cho cơn bão cách mạng công nghiệp, chi phối hoạt động của mọi ngành sản xuất trong hai thế kỷ 18 và 19, giúp loài người hưởng thụ được phồn vinh cho tới ngày nay.

Và chắc hẳn cũng không phải tình cờ mà những tài năng lớn nhất của nhân loại trong lĩnh vực âm nhạc cổ điển lại thành danh trong thời đại khai sáng. Trong thời gian đó, chúng ta có thể kể hàng loạt nhạc sư có tài năng vượt không gian, vượt thời gian và còn có giá trị cao vời vợi cho đến hôm nay. Vài khuôn mặt tiêu biểu như Antonio Vivaldi (1678-1741), Johann Sebastian Bach (1685-1750), Joseph Haydn (1732-1809), Wolfgang Mozart (1756-1791), Ludwig van Beethoven (1770-1827), Franz Schubert (1797-1828) v.v… Đến hôm nay ở trong các thư viện và bảo tàng, người ta vẫn còn bất chợt tìm thấy những bản gốc của những tác phẩm lạ và độc đáo của các nhạc sĩ tài hoa thế kỷ 17 và 18.   

Văn học nghệ thuật cũng phát triển nhộn nhịp không kém. Thời đại khai sáng chứng kiến sự thành danh của những nhân vật xuất sắc, mà sự đóng góp của họ vào lịch sử văn chương nghệ thuật được đánh giá như những nhà cách mạng. Đầu thế kỷ 17, khi Galileo Galilei người Ý làm cuộc cách mạng trong ngành thiên văn, thì William Shakespeare tại Anh khởi động cuộc cách mạng ngành sân khấu kịch nghệ, xác định một phong cách giải trí mới cho nhiều thế kỷ về sau. Đấy là chúng ta chưa kể hết những gương mặt lớn như Goethe, Lessing, Schiller của Đức; Voltaire, Molière, Racine, La Fontaine của Pháp; Carpio, Barca của Tây Ban Nha v.v… Chắc hẳn chúng ta cần thêm nhiều bút mực mới nói hết thành tựu của văn chương châu Âu trong thời đại khai sáng.

Trào lưu khai sáng tất nhiên không dừng lại ở cuối thế kỷ 18, mà còn tồn tại và phát triển trong những thế kỷ tiếp theo, không những cho riêng châu Âu mà dần dần lan tỏa ra các lục địa khác. Tuy nhiên, trào lưu khai sáng kể từ thế kỷ 19 mang một nội dung mới. Bộ mặt châu Âu trong thế kỷ 19 và 20 đã đổi khác, cấu trúc xã hội đã thay đổi sâu sắc; khoa học và kỹ thuật đã phát triển lên một mức độ cao hơn; cuộc cách mạng công nghiệp không những đã xuất hiện mà còn phát triển vũ bão đến mức độ khó lường mà con người chưa bao giờ chứng kiến trước đó; các tư tưởng tiên phong và tiến bộ được sản sinh trong thế kỷ 18 không còn là những lời tiên tri mơ hồ, mà đã trở thành hiện thực và từng bước được hoàn thiện trong thế kỷ tiếp theo trên khắp mọi miền ở lục địa châu Âu; các tính chất cần thiết của một con người khai sáng trong thời đại mới đã trở thành giá trị phổ quát, được xã hội và học đường thừa nhận và tôn vinh.

Trong bối cảnh lịch sử ấy, tư tưởng khai sáng kể từ thế kỷ 19 về sau tất nhiên mang một sắc thái mới, có một nội dung mới nhằm lý giải các hiện tượng trong xã hội đương thời, đồng thời đưa ra những tiền đề mới để đón đầu giải quyết các vấn nạn chắc chắn sẽ xảy ra. Nói cách khác, ngưỡng cửa 1800 có thể xem là thời điểm kết thúc của trào lưu khai sáng theo phong cách cũ, hay ít ra, có thể xem đó là một giả thuyết có cơ sở để làm mốc lịch sử cho việc khảo cứu tiếp theo.

Đi ngược về phía trước, việc định vị điểm khởi đầu của thời đại khai sáng tương đối phức tạp hơn và khó đạt đến một kết luận thống nhất. Một số sử gia lấy cuộc cách mạng vinh quang tại Anh năm 1688 là điểm khởi đầu. Nhiều sử gia khác thì lấy năm 1649 như một điểm uốn lịch sử để định vị sự bắt đầu của thời đại khai sáng. Hai thời điểm nói trên đều hợp lý, nếu chúng ta chỉ chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng lên sự thay đổi thể chế chính trị tại châu Âu. Nhưng nếu khảo sát một cách tổng thể, đứng trên quan điểm khoa học, văn hóa, và triết học tư tưởng, chúng ta có thể truy tìm nguồn gốc sâu xa hơn.

Nếu trào lưu khai sáng phát triển rực rỡ kể từ cuộc cách mạng Anh năm 1688, thì biến cố lịch sử đó cũng không đến một cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc vận động dân chủ tại Anh bắt đầu từ năm 1649, khi nhà quân chủ chuyên chế Charles I bị hành hình, quyền lực Vương triều được trao vào tay nghị viện, và chế độ cộng hòa bắt đầu xuất hiện trên vương quốc Anh. Đó cũng là mô hình chính trị đầu tiên của loài người, vốn dĩ là một thể chế chính trị được xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu với danh xưng chính thức là Khối thịnh vượng chung Anh quốc (Commonwealth of England).

Nhưng từ đâu mà ý thức dân chủ cộng hòa có thể bộc phát và có sức mạnh làm sụp đổ hệ thống quyền lực đã được xây dựng từ nhiều thế kỷ trước trên vương quốc Anh? Câu trả lời thật đơn giản: Trước đó, ý thức của giới tinh hoa đương thời đã thay đổi sâu sắc, kết hợp với ý chí hành động không lay chuyển để nắm lấy vận mệnh của chính mình. Họ bất tuân quyền lực thế tục để đòi hỏi quyền tự quyết cho bản thân. Họ từ chối thần quyền với giáo điều khe khắt và lừa bịp để chọn cho mình con đường tư duy độc lập. Họ từ chối mặc khải thần thánh, mê tín huyễn hoặc để tự đi tìm quy luật phát triển của thiên nhiên. Những thành tố đó đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 17 với một gương mặt nổi bật là Francis Bacon (1561-1626), người đã khai sinh nền triết học tự nhiên (natural philosophy) và thuyết duy nghiệm (empirism) của thời hiện đại, được áp dụng rộng rãi cho việc nghiên cứu khoa học tự nhiên sau này.

Chúng ta thử nêu lên một giả thuyết rằng, có hợp lý hay không khi chọn thời gian thành danh của Francis Bacon làm mốc khởi đầu của thời đại khai sáng? Trình độ văn minh của một xã hội không thể được đo lường đơn thuần từ của cải vật chất hoặc mức độ phồn vinh nói chung mà xã hội đó đạt được, nhưng nhất thiết phải được đánh giá bằng tinh thần sẵn sàng của các thành viên trong nỗ lực tìm tòi nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ mới hòng làm cho đời sống con người được tốt đẹp hơn – những tiến bộ về mặt tư tưởng cũng như trong khoa học và kỹ thuật.

Francis Bacon đã tự đặt ra mục đích cho những hoạt động tinh thần của mình là khơi dậy tính sẵn sàng nghiên cứu, chấp nhận và sử dụng các tiến bộ mới. Trong cuộc chuyển hóa từ trật tự nông nghiệp phong kiến sang trật tự công nghiệp tiền tư bản, Francis Bacon dù không phải là người khởi động cuộc chuyển hóa, nhưng có lẽ ông là triết gia đầu tiên nhận thức được tầm vóc lớn lao của cuộc chuyển hóa đó, mà ông đã tiên đoán gần một thế kỷ trước khi nó được định hình tại châu Âu.

Gần 70 năm sau Bacon, vị tổ phụ của lý thuyết kinh tế thị trường, Adam Smith quan sát cẩn thận hơn và tóm tắt tầm quan trọng của bước chuyển tiếp giữa hai hình thái xã hội đó, ông “đề cập đến một cuộc chuyển hóa mang tính cách mạng, nói chính xác hơn là một cuộc đại cách mạng. […] Và thực sự chưa bao giờ trong lịch sử, đời sống con người lại được thay đổi tận gốc trong một thời gian ngắn, như trong bước chuyển tiếp từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp[3]”.

Cũng không có gì để nghi ngờ rằng, Francis Bacon là triết gia đầu tiên nhận thức một cách sâu sắc rằng, xã hội này tất yếu sẽ cần đến sự phát triển một nền triết học và luân lý biết hướng đến các tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong tương lai[4], vừa có mục đích lý giải và quảng bá chúng, vừa biết đặt ra những tiền đề cần thiết để giải quyết những vấn nạn do chúng gây ra.

Ngoài ra, khi nói về khai sáng thì chúng ta cũng không thể bỏ quên René Descartes (1596-1650), trẻ hơn Francis Bacon một thế hệ, là “ông tổ đích thực của tư tưởng hiện đại, người đã đề ra yêu cầu: nhờ vào sự trợ giúp của khoa học và kỹ thuật, con người phải và có thể trở thành chủ nhân và chủ sở hữu của thiên nhiên[5]”. Giáo sư Paul Hazard nhận xét về Descartes: “Cho đến cuối thế kỷ 17, Descartes vẫn chiếm ngôi vua [trong làng học giả] … Mỗi người Pháp, nếu có chút liên quan đến suy luận, đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của ông, kể cả các đối thủ. Ở bên ngoài nước Pháp cũng thế, không có một người nổi danh nào, mà lại không một lần được Descartes truyền cảm hứng để suy nghĩ, để biện giải triết học[6]”.

Điều ít người làm được là, Descartes đã có công đưa nền triết học tự nhiên đến một khúc quanh mới: Các luận điểm trong triết học tự nhiên có thể được kiểm chứng bằng các kết quả của nghiên cứu khoa học, kể cả việc sử dụng công cụ toán học và vật lý để soi sáng thêm. Quả thật, điều đó đã được thể hiện trong các tác phẩm kinh điển của ông.

Cặp bài trùng Bacon-Descartes này chính là hai vị tổ phụ của phương pháp nghiên cứu khoa học còn được sử dụng cho đến hôm nay. Bacon dùng phương pháp quy nạp[7] để tìm chân lý, Descartes thì xuất phát từ những tiền đề mà nhận thức con người xem ra có vẻ hiển nhiên, diễn dịch chúng để xây dựng hệ thống lý luận. Cả hai ông đều đúng và sai. Đúng vì cả hai phương pháp đều có giá trị thực tiễn trong nghiên cứu khoa học. Sai vì không phải chỉ có một trong hai phương pháp – diễn dịch hoặc quy nạp – mới đưa đến kết luận đúng đắn. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học ngày hôm nay phải dựa vào cả hai phương pháp chứ không riêng một phương pháp nào mới có thể đưa đến kết quả.

Về mặt triết học, Bacon và Descartes là “hai tác giả hàng đầu của cuộc cách mạng lớn nhất ngành triết học mà thế giới hiện đại từng chứng kiến, mỗi người chiếm vị trí lãnh đạo một trường phái riêng vốn dĩ không ngừng cạnh tranh nhau về ảnh hưởng[8]”. Như vậy, khi nói về trào lưu khai sáng, thật là thiếu sót, nếu chúng ta bỏ quên hai đại triết gia Bacon và Descartes. Ngoài ra, khi so sánh phương pháp tư duy của Bacon và Descartes với các học giả trong thời gian trước đó, thiết tưởng cũng là điều hợp lý khi xem thời gian ở ngưỡng cửa 1600 là bước chuyển tiếp giữa hai phong thái học giả khác nhau, đánh dấu bước ngoặt mới trong tiến trình phát triển tư tưởng của châu Âu, về nhận thức luận cũng như phương pháp luận.

Ngoài bước ngoặt quan trọng về phương pháp luận, thế kỷ 17 cũng đánh dấu một sự biến chuyển sâu sắc trong nhận thức con người về vũ trụ, và gắn liền với nó là sự nghi ngờ những điều được ghi chép trong Thánh Kinh và giáo lý Kitô, làm giảm sút niềm tin về sự đúng đắn của triết lý thần học. Nhờ thế, hệ tư tưởng châu Âu bước vào một thời đại mới với nhiều tư duy và sáng kiến lấy con người làm trung tâm, những người biết độc lập suy luận thay vì tin tưởng, phụ thuộc vào mặc khải thần thánh và giáo lý Kitô.

Kể từ thế kỷ thứ tư trước CN, Aristotle diễn tả vũ trụ là một hệ thống bao gồm nhiều hành tinh quay quanh trái đất trên quỹ đạo hình tròn của chúng với trục quay là trung tâm quả địa cầu. Giả thuyết này được Claudius Ptolemy (100-160 sau CN) khai triển thêm, hệ thống hóa và diễn giải trong tác phẩm của ông[9], sau đó đã trở thành sách kinh điển của ngành thiên văn học suốt hơn 1500 năm. Vũ trụ quan này phù hợp với những quan sát thường nhật và phù hợp với Thánh Kinh, nên các học giả của Giáo hội Kitô, kể từ thế kỷ thứ tư sau CN, tiếp nhận và cương quyết bảo vệ vũ trụ quan nhật tâm (geocentrism), vốn dĩ đã trở thành tư tưởng cốt lõi của triết lý thần học.

Lúc ấy, người ta quả quyết rằng, trái đất là trung tâm của vũ trụ, trong đó vị trí của con người, vốn dĩ do Đấng Sáng Tạo sinh ra, được xác định rõ ràng. Bên ngoài quả đất là Trời, là Thiên Đường, là thế giới của Thượng Đế và thánh thần, nơi mà sau khi chết, con người có thể đạt đến cuộc sống vĩnh cửu đầy hạnh phúc nếu trong lúc còn sống, họ hội đủ những tiêu chí được định ra bởi giáo lý thần học. Hệ tư tưởng này chi phối châu Âu suốt một thời gian dài cho đến thế kỷ 16, tuyệt đối không có một luồng tư tưởng thứ hai nào khả dĩ có sức thuyết phục cao để cạnh tranh và phản bác lại được. Vì thế, học giả châu Âu không có một tiêu chí nào khác để so sánh, ngoại trừ những truyền thống phổ biến trong xã hội họ đang sống, hoặc cùng lắm là trở về với thế giới cổ đại, mà tự nó là biểu tượng đã có tính khuôn mẫu[10].

Mãi cho đến đầu thế kỷ 16, Nikolaus Kopernikus người Ba Lan bắt đầu đưa ra những quan sát mới về sự chuyển động các hành tinh lấy mặt trời làm trung tâm. Vũ trụ quan nhật tâm này (heliocentrism) được chính thức công bố trong tác phẩm kinh điển của Kopernikus vào năm 1543, và được chấp nhận ngày càng rộng rãi trong giới nghiên cứu khoa học nói riêng và giới học giả nói chung. Người ta gọi biến cố này là cuộc cách mạng Kopernikus trong ngành thiên văn học. Sau đó, Johannes Kepler tính toán một cách chính xác sự chuyển động các hành tinh bằng mô hình toán học. Theo Kepler, quỹ đạo chuyển động của quả đất chung quanh mặt trời không phải là hình tròn, mà có dạng bầu dục. Song song, Galileo Galilei kiểm chứng bằng những quan sát và đo đạc qua kính viễn vọng do chính ông sáng chế[11]. Cuối cùng, Isaac Newton phát hiện lực ly tâm và củng cố thuyết nhật tâm bằng các định luật vật lý.

Bốn vị học giả hàng đầu này – Kopernikus, Kepler, Galilei và Newton – đã làm cho cuộc cách mạng Kopernikus trở nên hấp dẫn và đáng tin cậy hơn. Vì lý thuyết của ông giờ đây đã được kiểm chứng bằng quan sát thực tế cũng như qua phương pháp toán học và vật lý, nên nó được chấp nhận càng ngày càng rộng rãi trong giới học giả.

Trong bối cảnh thế kỷ 17, thuyết nhật tâm có giá trị cao hơn một tư tưởng cách mạng trong khoa học. Một mặt, nó đối lập với thuyết địa tâm sai lạc vốn đã ăn sâu bám rễ tại châu Âu trong hơn một ngàn năm. Mặt khác quan trọng hơn, nó đặt ra nhiều câu hỏi căn cơ liên quan đến Thánh Kinh, đến giáo lý thần học, đến chủ nghĩa kinh viện[12], đến nền triết học được quảng bá trong các tu viện và trường đại học. Sự hoài nghi này làm cho niềm tin vào các giá trị truyền thống giảm sút.

Trong lúc sự chống đối của Giáo hội và các học giả thần học bảo thủ ngày càng mạnh, thì xung đột nội tâm của học giả theo xu hướng hiện đại ngày càng gay gắt hơn. Quá trình cọ xát tư tưởng này tất yếu đã làm cho niềm tin vào triết lý thần học và các định chế tôn giáo giảm sút nặng nề. Từ đó, xu hướng ly khai về mặt tư tưởng đã bắt đầu xuất hiện. Nói cho cùng, nếu không có sự cương quyết thoát ly khỏi sự gò bó tư tưởng trong thế kỷ 17, thì các nhà tư tưởng hàng đầu của thế kỷ 18 cũng chưa chắc đã có những phát kiến độc đáo như chúng ta thấy trong trào lưu khai sáng.

Trong suốt thế kỷ 17, truyền thống cổ điển ngày càng bị xói mòn bởi những tri thức mới thu lượm được và bởi phương cách con người nhìn vào các kinh nghiệm làm cho họ trước hết nghi ngờ, và dần dần tiến đến niềm lạc quan chưa từng có tiền lệ về việc nhận thức bản chất con người và năng lực điều khiển môi trường xã hội chung quanh trở về phục vụ cho bản thân họ[13]. Cuộc cách mạng Kopernikus có sức mạnh như thanh trường kiếm bén nhọn trong cuộc thánh chiến của khoa học chống lại mê tín và mù quáng.

Thời gian này cũng xuất hiện những tác phẩm mang tính đột phá trong lĩnh vực khoa học và triết học, chi phối hướng đi của các nghiên cứu trong nhiều thế kỷ về sau. Thí dụ, Johannes Kepler xuất bản “Năm tác phẩm về sự hài hòa trong vũ trụ” năm 1619 (Harmonices Mundi Libri V); Galileo Galilei xuất bản “Đối thoại về hai hệ thống vũ trụ” năm 1632 (Dialogo), tác phẩm đã làm cho ông bị Giáo hội kết án chung thân năm 1633, sau được giảm xuống còn quản thúc tại gia cho đến lúc chết[14]; René Descartes xuất bản “Diễn giải về phương pháp” năm 1637 (Discours de la méthode); Isaac Newton cho ra đời tác phẩm “Nguyên lý toán học trong triết học tự nhiên” năm 1687 (Philosophiae Naturalis Principia Mathematica).

Thế kỷ 17 có thể xem như thời gian cày xới ươm mầm, phát triển và thu thập sức mạnh mà rầm rộ nhất là hậu bán thế kỷ với sự xuất hiện của nhiều tạp chí định kỳ thuộc đủ mọi ngành, và nhất là đa số chúng được xuất bản bằng tiếng địa phương với giá thấp nhờ kỹ thuật in ấn hàng loạt, cho nên mọi giới trong xã hội có thể tiếp cận dễ dàng. Đây cũng là thế kỷ thành danh của những khuôn mặt lớn như Pierre Bayle, Thomas Hobbes, Gottfried Wilhelm Leibniz, John Locke, Isaac Newton, Blaise Pascal, Samuel von Pufendorf, Baruch de Spinoza v.v…

Dưới tác động về tư tưởng của những học giả sáng giá, đến khoảng thời gian hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 17, người ta ghi nhận nhiều thay đổi tâm lý được xem như là gốc rễ của sự chuyển hóa xã hội. Lúc đó, sự đối đầu xuất hiện khá rõ rệt giữa một bên là phái “hiện đại” chấp nhận tiến bộ và hãnh diện vì những phát kiến mới trong khoa học tự nhiên, bên kia là những người vẫn trung thành với các thành quả của văn minh cổ đại hoặc những phán quyết huyễn hoặc của triết lý thần học. Văn minh cổ đại không còn giữ vị trí khuôn thước cho giới học giả. Một cách tổng thể, con người bắt đầu nghi ngờ những phép mầu, lời tiên tri hoặc những phép thuật thần thông[15].

Và chỉ riêng thuật ngữ “hiện đại” bỗng nhiên được xã hội gán cho một giá trị không có gì để so sánh, đã trở thành một công thức kỳ diệu, đủ để người ta khai trừ quá khứ ra khỏi mọi ý niệm, và sau khi tự nhận mình là người hiện đại, mặc dù ban đầu rất ngập ngừng, người ta bỗng trở nên kiêu hãnh và có cách hành xử đầy thách thức [đối với những gì gọi là cổ điển][16]. Văn minh cổ đại không còn giá trị khuôn thước trong thời đại mới. Giáo lý thần học cũng không còn vị trí độc tôn như trước.

Khắp nơi người ta phản bác lại truyền thống. Họ hết sức nghi ngờ các phép lạ, thần kỳ, tiên tri, ảo thuật vốn dĩ khá phổ biến trong xã hội trước đó. Trào lưu khai sáng thực sự thăng hoa về mặt tư tưởng trong thế kỷ 18 với cao điểm là lúc Immanuel Kant cho ra đời tác phẩm Phê phán Lý tính Thuần túy[17] năm 1781, mở đầu cho sự phổ biến rộng rãi nền triết học hiện đại, gần như đồng thời với tác phẩm Phồn vinh các quốc gia[18] của Adam Smith xuất bản năm 1776, mở đầu cho ngành kinh tế chính trị học theo trường phái kinh tế thị trường tự do, đặt nền móng cho sự tăng trưởng phồn vinh phương Tây đến tận hôm nay.

Với cuộc cách mạng Pháp, một mặt là kết quả huy hoàng của cuộc vận động khai sáng và đẩy lùi chế độ quân chủ chuyên chế, mặt khác là điểm khởi đầu của chế độ khủng bố do Maximilien de Robespierre và nhóm Jacobin gây ra trong xã hội Pháp, sau đó là cuộc trường chinh đầy tham vọng suốt hai thập niên của Napoleon, nhiều nghi vấn được đặt ra về tính chính danh và đạo đức, làm cho trào lưu khai sáng phải “tạm” thoái lui để nhường chỗ cho thuyết duy tâm và trào lưu lãng mạn kể từ thế kỷ 19. Cũng thật là bi tráng, trào lưu khai sáng bắt đầu ở Anh và thăng hoa ở Pháp với cao điểm là cuộc cách mạng năm 1789, thế mà cũng chính cuộc cách mạng này với những hệ lụy bi thảm do Robespierre và Napoléon gây ra, Pháp đã khép lại cánh cửa của trào lưu khai sáng kể từ cuối thế kỷ 18.

Tất nhiên, tinh thần khai sáng vẫn tiếp tục tồn tại trong thế kỷ 19 và tác động lên tiến trình phát triển xã hội, nhưng nó xuất hiện dưới một phong thái khác, với hệ tư tưởng triết học mới mẻ hơn và trào lưu văn hóa hiện đại hơn. Trong thế kỷ 19, thuật ngữ „thời đại của lý tính“, vốn dĩ là biểu tượng của thế kỷ 18, không dễ dàng được công chúng tiếp tục chấp nhận; những „con người khai sáng“ cũng không còn dễ dàng được tôn vinh. Những người thuộc xu hướng lãng mạn gọi họ là những người vô hồn vô cảm. Giới bảo thủ thì nhìn họ như là những người quá khích. Ngược lại, bản thân những người cực đoan thì nhìn những phát ngôn viên hàng đầu của trào lưu khai sáng, như Voltaire chẳng hạn, thực chất là những người thuộc giới tinh hoa quá ư lịch thiệp, chỉ biết đàm đạo trong phòng trà hơn là tham gia hoạt động thực tiễn. Mãi đến hậu bán thế kỷ 20, khi quan hệ phức tạp giữa tư tưởng và hành động được hiểu một cách sâu sắc, lúc ấy người ta mới trở lại tôn vinh những khác biệt tinh tế giữa các thành tố của trào lưu khai sáng[19].

Để tóm tắt, chúng ta có thể nói rằng, trào lưu khai sáng đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến với cao điểm là hai cuộc cách mạng ở Mỹ và Pháp, để chuẩn bị bước sang chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ thế kỷ 19 với các định chế chính trị dân chủ xuất hiện trên khắp lục địa. Trong lúc mọi nơi trên thế giới còn sống dưới chế độ phong kiến, hoặc có nơi còn giữ hình thái xã hội bộ lạc, thì hầu hết tất các nước ở châu Âu và Bắc Mỹ đều bắt đầu xây dựng thể chế chính trị dựa trên nguyên tắc pháp luật và phân quyền với hiến pháp quy định nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do căn bản cho mọi công dân. Đó là thành quả lớn lao của trào lưu khai sáng trong thế kỷ 18, làm bàn đạp cho những thay đổi xã hội châu Âu và Bắc Mỹ trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn chương, triết học. 

Nhưng nói cho cùng, các thành quả của thế kỷ 18 cũng chỉ là bước tiến tất yếu của quá trình vận động khai sáng bắt đầu từ thế kỷ 17, được xem như là gốc rễ, và cũng là xung lực cho những thành tựu về sau. Nhưng điều gì đã làm cho thế kỷ 17 quan trọng đến thế? Câu trả lời thật rõ ràng: Là con người! Là tư duy tự do và ý chí hành động của lớp trí thức mới mà chúng ta chưa bao giờ tìm thấy trong lịch sử châu Âu suốt 2.000 năm trước đó. Có lẽ cũng là điều cần thiết, nếu chúng ta phân tích nguyên nhân nào mà lịch sử có thể tạo nên những con người đặc biệt của thế kỷ 17, từ thái độ thuần phục giáo điều ý thức hệ và cường quyền, bỗng trở thành những con người tự chủ, làm động lực cho trào lưu khai sáng phát triển rực rỡ. Khi bàn về Triết học và tôn giáo trong thời đại khai sáng, chúng ta sẽ trở lại câu hỏi này.

Trong làng học giả đó, chúng ta thấy rõ nhiều bậc vĩ nhân vươn lên như những vì sao sáng. Thí dụ như bốn khoa học gia vĩ đại đã làm cuộc cách mạng về vũ trụ như đã nói ở trên. Hoặc như hai đại triết gia Bacon và Descartes đã làm cuộc cách mạng vĩ đại về tư duy. Như vậy, nói đến trào lưu khai sáng, làm sao chúng ta không đề cập đến những vĩ nhân này? Xem lại cuộc đời những người đó, Kepler và Galilei đều sinh ra vào hậu bán thế kỷ 16 và thành danh ở đầu thế kỷ 17, Bacon và Descartes đều thành danh trong tiền bán thế kỷ 17.

Nói tóm lại, nếu cần phải định vị thời gian, chúng ta có thể xem như thời đại khai sáng kéo dài hai thế kỷ 17 và 18, bắt đầu ở ngưỡng cửa 1600 với ba thập niên thành danh của các nhà khoa học vũ trụ Galilei, Kepler và Newton, cũng như Francis Bacon trong triết học hiện đại, và sau đó là René Descartes trong nghiên cứu khoa học.

Với sự biến chất của cuộc cách mạng Pháp, từ những lý tưởng cao đẹp được cả lục địa ngưỡng mộ, rồi trở thành bạo lực, khủng bố của nhóm Jacobin và mộng bành trướng của Napoléon, tất cả xảy ra trong cùng một thập niên với tác phẩm “Phê phán Lý tính Thuần lý” của Immanuel Kant, thời đại khai sáng có thể xem như đã khép lại ở thập niên cuối của thế kỷ 18 để châu Âu đi vào một giai đoạn mới, với những luồng tư tưởng mới.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, tinh thần của trào lưu khai sáng không thể được đóng khung trong một thời kỳ lịch sử cụ thể, mà đó là một sự phát triển rộng lớn về tư tưởng, tâm lý và xã hội. Nó không thể bị gắn chặt vào một thời gian nào hoặc một vùng địa lý nào. Lối định vị ở trên chỉ nên xem như một giả thuyết có cơ sở để làm nền tảng cho những công trình khảo cứu tiếp theo. Vì thế, những khảo sát sau này của chúng tôi sẽ đặt trên giả thuyết rằng, trào lưu khai sáng được gói gọn trong hai thế kỷ, từ năm 1600 đến 1800.

./.

Tôn Thất Thông, tháng 8/2024

Trở về trang chủ

Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông

Nghe bài viết này trên Video Youtube:

Tài liệu tham khảo

  1. Brinton, Crane, Christopher, John B. và Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present. ISBN 0-13-389593-9. (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay).

  2. Bùi Văn Nam Sơn: Trò chuyện triết học. Nhà xuất bản Tri Thức, 2012.

  3. Châtelet, François chủ biên và nhiều tác giả: Geschichte der Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng). ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).

  4. Durant, Will và Ariel: Das Zeitalter Voltaires (Thời đại Voltaire). Kulturgeschichte der Menschheit – Band 14. ISBN 3-548-36114-5. (Elinor Lipper dịch từ tiếng Anh: The Story of Civilization, Vol. IX).

  5. Gay, Peter: The enlightenment: An Interpretation. The science of freedom (Dẫn luận về khai sáng – Khoa học của tự do). ISBN 0-393-00875-4.

  6. Guizot, François: The History of Civilization in Europe (Lịch sử Văn minh châu Âu – William Hazlitt dịch từ tiếng Pháp: Histoire Générale de la Civilisation en Europe). Penguin Books 1997.

  7. Hampson, Norman: The Enlightenment – An evaluation of its assumptions, attitudes and values (Khai sáng – Đánh giá những giả thuyết, quan điểm và giá trị). ISBN 0-14-013745-9.

  8. Hazard, Paul (1): Die Krise des Europäischen Geistes 1680-1715 (Khủng hoảng lương tâm ở châu Âu 1680-1715). NXB Hoffmann und Campe Hamburg 1939 (Harriet Wegener dịch từ tiếng Pháp: La Crise de la Conscience Européenne 1680-1715).

  9. Hazard, Paul (2): European Thought in the Eighteenth Century (Tư tưởng châu Âu thế kỷ 18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ tiếng Pháp: La Pensée européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).

  10. Hirschberger, Johannes: Geschichte der Philosophie – Band II: Neuzeit und Gegenwart (Lịch sử triết học – Tập II: Thời cận và hiện đại). ISBN 3-933366-00-3). Có thể tham khảo thêm trọn bộ tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt: Lịch sử triết học Tập I & II – Bùi Văn Nam Sơn và tập thể dịch giả – NxB Tri Thức.

  11. Höffe, Otfried (I) chủ biên và nhiều tác giả: Klassiker der Philosophie I (Những triết gia kinh điển, Tập I). ISBN 3-406-08048-0.

  12. Mann, Golo và Nitschke, August: Weltgeschichte Band VII – Von der Reformation zur Revolution (Lịch sử thế giới bộ VII – Từ cải cách tôn giáo tới cách mạng). ISBN 3-549-05017-8.

  13. Pleticha, Heinrich chủ biên và nhiều tác giả: Aufklärung und Revolution – Europa in 17. und 18. Jahrhundert (Khai sáng và Cách mạng – Châu Âu trong thế kỷ 17 và 18). ISBN 3-577-15008-4 (Bertelsmanns Weltgeschichte – Band 8).

  14. Porter, Roy (1): Enlightenment – Britain and the creation of the modern world (Khai sáng – Anh quốc và sự thành lập thế giới hiện đại). ISBN 0-14-025028-X.

  15. Porter, Roy (2): Kleine Geschichte der Aufklärung (Lịch sử ngắn về Khai sáng – Ebba D. Drolshagen dịch từ tiếng Anh: The enlightenment, xuất bản 1990). ISBN 3-8031-2192-2.

  16. Samhaber, Ernst: Geschichte Europas (Lịch sử châu Âu). ISBN 3-771-30169-6.

  17. Van Doren, Charles: Geschichte des Wissens. ISBN 3-764-35324-4. (Lịch sử của tri thức – Anita Ehler dịch từ tiếng Anh: A history of knowledge).

  18. Ziegler, Walther (SMITH): Smith trong vòng 60 phút. Nhà xuất bản Hồng Đức và Văn Lang 2019. ISBN 978-604-9948-30-5. Tủ sách “Những nhà tư tưởng lớn” (Tôn Thất Thông dịch từ bản tiếng Đức: Smith in 60 Minuten. ISBN 978-3-7347-8157-5).


—–

Ghi chú


[1] Xem R. Porter(2) trang 21.

[2] Glorious Revolution, cũng có lúc được gọi là Bloodless Revolution (cách mạng không đổ máu).

[3] W. Ziegler (SMITH), trang 29-30.

[4] Xem O. Höffe (I) trang 262 – Wolfgang Krohn.

[5] Bùi Văn Nam Sơn (1), trang 433-434.

[6] Xem P. Hazard (1) trang 162.

[7] Quy nạp (inductive logic) là phương pháp lý luận căn cứ trước hết từ sự quan sát và dữ liệu thu thập được, để từ đó rút ra một nguyên lý phổ quát có giá trị chung nhất.

[8] Xem F. Guizot trang 200.

[9] Mathematices syntaxeos biblia XIII.

[10] N. Hampson, trang 20.

[11] Nguyên tắc của kính viễn vọng được khám phá đầu tiên năm 1608 bởi người thợ kính Hà Lan, Hans Lipperhey, nhưng nó chưa có ứng dụng nào cụ thể trong khoa học và đới sống. Galileo Galilei có công hoàn thiện lý thuyết và sáng chế ra kính viễn vọng đầu tiên năm 1610, được gọi là kính viễn vọng Galilei.

[12] Scholasticism – Scholastik

[13] N. Hampson, trang 23.

[14] Mãi 250 năm sau, năm 1979, Hàn lâm viện Khoa học Giáo hoàng La Mã mới nhận nhiệm vụ nghiên cứu các dữ kiện liên quan đến bản án. Học viện mất 13 năm để hoàn tất và trình kết quả vào ngày 31.10.1992. Ba ngày sau, Giáo hoàng John Paul II thừa nhận sai lầm, hủy bản án và phục hồi danh dự cho Galileo Galilei.

[15] Xem G. Mann trang 479 – Fritz Schalk.

[16] Xem P. Hazard trang 56.

[17] Kritik der reinen Vernunft, 1781. Đến năm 1827, tác phẩm này bị Giáo hội Công giáo La Mã đưa vào „Danh mục sách cấm lưu hành“ (Index Librorum Prohibitorum, hay gọi tắt là Chỉ mục La Mã, Index Romanus).

[18] Adam Smith „An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations“, thường gọi tắt là “Wealth of Nations”, xuất bản lần đầu năm 1776.

[19] R. Porter (2), trang 10.