Trang chủ » UKRAINE TRONG LịCH SỬ CẬN ĐẠI (3)

UKRAINE TRONG LịCH SỬ CẬN ĐẠI (3)

Tháng Mười Hai 2025
H B T N S B C
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
293031  

Tìm chuyên mục

Thư viện

PHẦN 3: 30 năm độc lập – Dưới chiếc bóng quá khứ
Biên soạn: Tôn Thất Thông – Hiệu đính: Hoàng Lan Anh

Cuộc chiến Ukraine đã kéo dài hơn 1000 ngày, Ukraine vẫn đứng vững. Điều gì đã làm cho một dân tộc có đất rộng người thưa, chỉ với 40 triệu dân, mà họ đã làm cho Nga ngày càng sa lầy, tiến thoái lưỡng nan? Câu trả lời có thể tìm thấy từ lịch sử cận đại của Ukraine. Vì thế, chúng tôi xin giới thiệu loạt bài lịch sử bao gồm bốn phần. Sau đây là phần ba.

***

Năm 1991 là thời khắc lịch sử mang ý nghĩa quyết định cho tương lai của Ukraine. Nó quyết định cho một nền độc lập quốc gia lâu dài, điều mà trước đây, nếu có, chỉ tồn tại ngắn ngủi: Quốc gia này đã được thành lập lần đầu năm 1648, lúc ấy còn được gọi là Hetmanate Cossack của Ukraine. Nhưng sau 6 năm, chủ quyền bị hạn chế và quốc gia chỉ tồn tại 132 năm, sau đó hoàn toàn bị sát nhập vào Nga năm 1780. Cuộc đấu tranh tiếp tục để giành độc lập thành công năm 1918, nước Cộng hòa Nhân dân Ukraine được thành lập, nhưng chỉ tồn tại 3 năm trước khi trở thành một cộng hòa của Liên bang Xô viết cho đến lúc Liên Xô sụp đổ năm 1991. Giờ đây, với văn kiện giải thể Liên Xô, công nhận chủ quyền của Ukraine và cuộc trưng cầu dân ý với 92% phiếu thuận, một quốc gia mới đã thành hình với chủ quyền có giá trị vĩnh viễn.

Lễ ký kết giải thể Liên bang Xô viết, Belovezh 1991

Người ta chờ đợi một chuyển biến lịch sử về văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế cho Ukraine. Thậm chí người Ukraine thường trích dẫn một kết luận của Deutsche Bank năm 1991, rằng “Ukraine sẽ đạt được tiêu chuẩn kinh tế và văn hóa như Tây Âu sau một thời gian ngắn [xem xem Minakov]”. Một phỏng đoán quá lạc quan! Nhưng đó cũng là cơ hội mới đồng thời là thách thức nghiêm trọng. Sau 70 năm, chế độ toàn trị của Liên bang Xô viết đã để lại nhiều hậu quả cần được triệt để giải quyết trong công cuộc xây dựng tương lai. Xem xét một cách thực tế, những điều đó cũng chưa chắc được giải quyết tận gốc trong vòng nửa thế kỷ.

Một đặc trưng đáng chú ý của Ukraine là, nền độc lập năm 1991 chỉ có thể đạt được do sự thỏa hiệp giữa những người dân chủ quốc gia và người cộng sản. Thỏa hiệp này làm cho sự thay đổi triệt để giới tinh hoa khó lòng thực hiện, nhưng ngược lại nó đã đóng góp lớn cho sự chuyển đổi chính trị mang tính chất ôn hòa, với những ưu và khuyết điểm của nó [xem xem Portnov].

GIA TÀI XÔ VIẾT

Ukraine được độc lập vì chính quyền trung ương Moscow sụp đổ. Nhưng trong thời gian trước đó, đời sống chính trị Ukraine vẫn ngột ngạt vì những người cộng sản cực đoan. Ngay cả nhiều lãnh đạo ở Moscow cũng đã từng điều khiển hệ thống chính trị và kinh tế Ukraine. Họ đóng vai trò vượt trội trong nhiều năm dài. Nikita Chruschtchow, Leonid Brezhnev là những thí dụ. Trong mọi miền của Ukraine vẫn còn dấu ấn của bản sắc cộng sản. Ngay cả năm 1991 sau khi độc lập, giọng điệu hùng biện theo phong cách cộng sản vẫn còn được nghe nhiều ở những trung tâm chính trị như Kiyv, Kharkiv. Họ khó lòng thay đổi trong một sớm một chiều [xem xem Marples].

Mặc dù chính phủ mới tiến hành việc xóa bỏ tàn dư cộng sản suốt hai năm 1991 và 1992, như giải tán đảng cộng sản, tịch thu tài sản của đảng, cấm cơ quan mật vụ KGB hoạt động, cho phép tự do đảng phái, tự do tư tưởng, tự do báo chí, nhưng tàn dư của 70 năm Xô viết cũng không dễ xóa bỏ. Khắp nơi người ta vẫn thấy tượng đài Lê Nin, Stalin, Brezhnev ở những nơi đẹp nhất, có cả tượng đài Lê Nin cao nhất thế giới, nhưng không dễ kiếm thấy một tượng đài của đại thi hào Ukraine Taras  Shevchenko, người khai sinh ngôn ngữ Ukraine trong văn chương thơ phú, người được Ukraine tôn vinh là thần tượng của phong trào độc lập. Nhiều thành phố kỹ nghệ lớn ở miền Đông Ukraine mang tên những người cộng sản Liên Xô, chưa kể hàng ngàn tên đường, công trình công cộng, công viên, viện nghiên cứu. Vì thế, cũng không có gì ngạc nhiên nếu sau khi độc lập, những người cộng sản vẫn tiếp tục nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Việc cấu kết giữa những người có quyền lực này với các tay trùm kinh tế để làm ăn bất chính là vấn nạn trầm kha của đất nước Ukraine, cho đến bây giờ vẫn chưa giải quyết được, thậm chí đã có nhiều ông trùm vươn lên, trở thành lãnh đạo nhà nước.

HỆ THỐNG QUYỀN LỰC VÀ NẠN THAM NHŨNG

Trong thời kỳ Xô viết, nhà nước được xây dựng trên hệ thống quyền lực tập trung, không có cơ chế phân quyền để có thể kiểm soát lẫn nhau, cho nên nạn tham nhũng phát triển dễ dàng. Vấn đề lớn nhất của chính phủ hậu Xô viết là xây dựng hệ thống pháp quyền và diệt trừ nạn tham nhũng. Sau 30 năm, vấn nạn này vẫn tồn tại, mặc dù có những lĩnh vực đã được trong sạch hóa. Thí dụ, trong việc chọn lựa sinh viên và thi cử, với quy trình mới độc lập và thống nhất cả nước, nạn mua chỗ học và mua bằng tốt nghiệp đã được diệt trừ tận gốc. Nhưng nhìn chung trong xã hội, tham nhũng vẫn còn là vấn nạn lớn cản trở sự phát triển [xem xem Haran].

Ngay cả những lĩnh vực nhạy cảm như quân đội, nạn tham nhũng cũng rất tệ hại. Bộ chỉ huy quân đội luôn luôn có sự cấu kết chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước khi có dự án mua bán lớn, hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc tư nhân hóa các cơ sở vật chất, hoặc tư nhân hóa các tập đoàn nhà nước. Tiền lời sẽ được chia cho những đối tác liên hệ. Tổng chỉ huy quân đội Volodymyr Samana đã từng điều tra những kho vũ khí lớn được bán ra ngoài cho đối tác thứ ba. “Khi tôi nhậm chức năm 2012, quân số được ghi là 184.000. Nhưng thực chất toàn bộ hải, lục và không quân chỉ có 74.000 quân nhân. Số còn lại 110.000 là nhân viên dân sự làm quản lý, một con số không thể tưởng tượng được. Tôi đã bất lực khi điều tra xem có bao nhiêu nhân viên giả trong số 110.000 người đó [xem Schaeffer trang 58]”.

Tham nhũng vươn tới mọi ngõ ngách nhà nước như những vòi bạch tuộc, kể cả quan tòa. Người ta có thể mua quyết định quan tòa để tịch thu tài sản hoặc chuyển chủ quyền một tài sản nào đó. Luật gia Mykola Chavroniuk kết luận: “Những gì tôi sở hữu hôm nay, qua một phán quyết quan tòa bị mua chuộc, ngày mai có thể sẽ được chuyển qua tay người khác”.

Đấy là những lĩnh vực quan trọng, còn trong các cơ quan dịch vụ công cộng, không có chuyện gì được thực hiện nếu không trả tiền tham nhũng cho quan chức, bất kể đó là đơn xin thành lập một công ty, đơn đăng ký một chiếc xe, xin giấy chứng nhận để hưởng trợ cấp, đơn xin nhập bệnh viện để tiến hành một ca mổ. Mọi chuyện chỉ được giải quyết, và giải quyết nhanh hay chậm, chất lượng cao hay thấp, đều tùy vào số tiền trả cho những quan chức tham nhũng.

Cơ chế hữu hiệu nhất để giải quyết nạn tham nhũng là hệ thống pháp quyền vững mạnh, độc lập và công minh, không có ai và cũng không có cơ quan nào có thể ảnh hưởng được. Tuy nhiên, sau 70 năm dưới chế độ cộng sản thiếu pháp quyền, cách hành xử kiểu Xô viết đã trở thành một quán tính không dễ dàng thay đổi. Cụ thể 30 năm sau khi độc lập, Ukraine vẫn còn vật vã với một hệ thống tư pháp yếu đuối, quan tòa đễ bị gây sức ép bởi chính trị hoặc dễ bị mua chuộc. Xây dựng hệ thống pháp quyền vẫn còn là thách thức lớn cho Ukraine.

NHỮNG ÔNG TRÙM KINH TẾ

Tham nhũng gắn liền với các ông trùm kinh tế. Đó là những người làm giàu nhanh chóng trong giai đoạn tranh tối tranh sáng lúc kinh tế và xã hội chưa ổn định, đặc biệt trong 10 năm chuyển tiếp hậu Xô viết, khi hàng loạt tập đoàn nhà nước được tư nhân hóa. Họ trả tiền hậu hĩ cho các quan chức cao cấp để nhận những hợp đồng lớn, nâng khống giá cả để chia chác tiền lời cho quan chức. Họ cấu kết thành một hệ thống để làm lũng đoạn nhà nước và nuôi dưỡng vấn nạn tham nhũng. Họ cũng là những người chi tiền để khủng bố các ký giả điều tra tham nhũng, thậm chí khi cần cũng thuê người ám sát. Rất nhiều ông trùm nắm giữ hệ thống truyền thông đại chúng, cho nên họ dễ dàng điều khiển dư luận công cộng khi có những vụ án tham nhũng lớn. Nếu cần, họ cũng sẵn sàng trả tiền cho quan tòa để ảnh hưởng đến phán quyết.

Các ông trùm kinh tế đóng vai trò quan trọng gấp bội  so với các nước khác. Theo Forbes, chỉ riêng 100 ông trùm kinh tế Ukraine có tài sản khoảng 30,5% tổng sản lượng quốc gia. Đó là con số rất lớn so với 20% ở Nga và 6,6% ở Mỹ. Serhiy Lestschenko, ký giả chuyên điều tra các ông trùm cho biết: “Nếu bạn muốn làm kinh tế lớn ở Ukraine, bạn phải biết chia chác với các quan chức cao cấp, các chính trị gia, thủ trưởng các cơ quan liên hệ. Đó là lý do tại sao có nhiều ông trùm kinh tế ở Ukraine, và tương ứng là có một xã hội dân sự rất yếu kém, một guồng máy quản lý quốc gia èo uột [xem Schaeffer trang 54]”.

Mục đích các ông trùm không chỉ là làm giàu, mà còn có ý định trở thành chính trị gia để nắm quyền lực, không ít người đã trở thành tổng thống Ukraine. Nếu cần, họ sẽ giao hệ thống kinh doanh cho người nhà đứng tên, đồng thời có đủ mánh khóe để làm giàu dễ dàng hơn ở cương vị mới. Chỉ lấy ba thí dụ tiêu biểu trong ba nhiệm kỳ tổng thống liên tục: Trong nhiệm kỳ 2005-2010, Julija Timoschenko, một bà trùm cỡ vừa lên làm thủ tướng sau khi Cách mạng Cam thành công và Viktor Yushchenko được bầu làm tổng thống. Tiếp theo trong nhiệm kỳ 2010-2014, ông trùm kinh tế tầm cỡ Viktor Janukovytch lên làm tổng thống, xây dựng một chế độ chuyên chế, hệ thống tham nhũng rộng lớn chưa từng có và tay chân của ông là những ông trùm giàu nhất Ukraine, theo Forbes. Nhiệm kỳ 2014-2019 thì ông trùm sô-cô-la Petro Proroschenko trở thành tổng thống ngay sau khi cách mạng Maidan thành công (!). Tóm lại, trong thời gian 30 năm sau khi độc lập, Ukraine được lãnh đạo bởi các ông/bà trùm kinh tế hết 15 năm! Đấy là chưa kể hàng loạt ông trùm khác làm thống đốc các tỉnh, thí dụ như Ihor Kolomoyskyi đã từng làm thống đốc vùng Dnipropetrowsk do tổng thống và cũng là ông trùm sô-cô-la Petro Poroschenko bổ nhiệm.

NGÔN NGỮ VÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

Mặc dù đa số người dân muốn phục hồi tiếng Ukraine và củng cố bản sắc dân tộc, cuối thời kỳ Xô viết, vào năm 1990 chỉ có 45 % các trường có dạy tiếng Ukraine. Ở đại học còn tệ hơn, chỉ có 10% các bài giảng bằng tiếng Ukraine. Trước đó, người Nga muốn đồng hóa hoàn toàn Ukraine, thống nhất ngôn ngữ, lịch sử và tôn giáo, như chủ trương của Leonid Brezhnev muốn tạo một “cộng đồng lịch sử mới của một dân tộc Xô viết thống nhất”. Ngay cả phương Tây lúc ấy cũng không biết định vị Ukraine vào đâu. Năm 1990, Margaret Thatcher không hưởng ứng một quốc gia Ukraine độc lập với luận cứ: “Bạn có hình dung sự tách rời California ra khỏi Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ? [xem xem Haran]”.

Ngoài ra, hậu quả chính sách đồng hóa của các Nga Hoàng cũng như chính sách “thống nhất sắc tộc” của Brezhnev đã để lại hậu quả lâu dài lên bản sắc dân tộc. Tính chất hai mặt ở trên đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển chính trị tại Ukraine. Một mặt, nó tạo nên một mức độ nào đó về ý thức hệ đa nguyên và tính cạnh tranh chính trị, những tiền đề cần thiết để cho sự chuyển đổi sang thể chế dân chủ có thể thành công trong một quốc gia mà hệ thống đảng phái còn phát triển yếu ớt. Mặt khác, nó gây cản trở cho việc củng cố dân chủ trong xã hội, vì không chỉ có các tác nhân chính trị dân chủ thiên về phương Tây, mà có cả các lực lượng chuyên chế thiên về Nga vốn dĩ đã có một vòng cử tri ổn định với ý thức hệ cộng sản không hề thay đổi [xem xem Rjabtschuk]. 

Hai mặt mâu thuẩn về bản sắc thể hiện qua sự lan truyền chậm chạp những giá trị châu Âu và sự tăng cường có chừng mực thiên hướng dân tộc. Chúng ta thử xem xét ba nhóm người sử dụng ngôn ngữ: người gốc Ukraine nói tiếng Ukraine, người gốc Ukraine nhưng nói tiếng Nga và người gốc Nga nói tiếng Nga. Trong năm 2001, bình quân hơn một nửa vui mừng vì độc lập dân tộc, cụ thể trong ba nhóm trên là 60%, 43% và 25%. Đến năm 2019, tỉ lệ được nâng lên tuyệt đại đa số, cụ thể ba nhóm là: 89%, 78% và 75%. Có một sự khác nhau trong thiên hướng của người dân, nhưng xu hướng củng cố ý thức quốc gia dân tộc đều tăng lên trong các nhóm sắc tôc khác nhau.

Giờ đây, Ukraine phải thay đổi triệt để hệ thống giáo dục, văn hóa, nghệ thuật để nâng cao ý thức quốc gia, củng cố bản sắc dân tộc chống lại những tấn công thường trực từ phía Nga. Điều này có thể thành công trong thời gian tới, vì có lẽ đây là lĩnh vực duy nhất được phát triển một cách tích cực. Các định chế chính trị và quan chức tham nhũng dù sao cũng khó ảnh hưởng lên ý thức người dân về bản sắc dân tộc. Đại đa số người dân Ukraine (85%) đều mong muốn ý thức quốc gia được phát triển và tự xem mình trước hết là công dân của Ukraine. Sự khác nhau giữa các vùng miền không lớn, ở Tây Ukraine là 90% và ở Đông Ukraine là 83%. Theo thăm dò dư luận, càng ngày càng đông người dân có tâm lý “hãnh diện” làm người Ukraine. Tâm lý này được thể hiện qua thống kê: năm 2002, chỉ có 40% hãnh diện làm người Ukraine, thì đến năm 2021 tỉ lệ đã lên đến 70% [xem xem Haran].

Ba mươi năm từ ngày Xô viết sụp đổ, ý thức về bản sắc dân tộc trong người dân và giới tinh hoa được tăng lên rõ rệt.

ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

Giấc mơ hội nhập vào Liên Âu để chan hòa trong một cộng đồng hòa bình và hợp tác là động lực thúc đẩy quá trình chuyển hóa hậu Xô viết tại Ukraine. Nhưng giấc mơ này vẫn chưa được thực hiện, Ukraine vẫn là một thực thể nằm ngoài Liên Âu. Và cho đến khi chiến tranh xảy ra đầu năm 2022, viễn tượng về sự hội nhập có vẻ như chưa nằm trong tầm tay với.

Khác với các cộng hòa Xô viết khác ở vùng Baltic vốn ngay từ đầu đã có một chọn lựa dứt khoát về châu Âu, Ukraine trong những năm đầu tiên vẫn chưa có một định hướng rõ ràng. Điều này chúng ta thấy rõ trong những giai đoạn đan xen của chính sách đối ngoại, tuy không đối kháng nhau nhưng cũng mang mầm mống xung đột: Thời gian từ 1991 đến 2005 (nhiệm kỳ Tổng thống Kravtschuk và Kutschma) ghi rõ dấu ấn của chính sách đa phương, giữ thế cân bằng giữa Nga và châu Âu; từ 2010 đến 2014 (TT Yanukovych) thì chính sách rõ ràng thân Nga. Trong lúc đó thời gian từ 2005 đến 2010 (TT Yushchenko) và sau 2014 (TT Poroschenko và Zelenskyy) thì rõ ràng theo xu hướng hội nhập châu Âu.

Tuy thế, dường như Liên Âu một cách tổng thể, hoặc từ các nước lớn như Đức, Pháp, Ý vẫn chưa hề cân nhắc một cách thấu đáo, rằng Liên Âu sẽ mất gì nếu không thu nhận Ukraine vào tổ chức này. Liên Âu cũng chưa hề cân nhắc đến tầm quan trọng trong việc thu nhận một quốc gia vốn nhìn Liên Âu rất thiện cảm, cho dù những thất bại bên trong nội bộ và sự đổ vỡ Brexit [xem xem Portnov].

Nhưng kể từ 2017, sau khi hiệp ước liên kết với Liên Âu được ký kết, tình hình đã thay đổi dường như không thể đảo ngược, tạo thêm cơ hội và sức ép cho Ukraine tiến hành những cải cách cần thiết. Việc hợp tác kinh tế được nâng lên một mức cao hơn về lượng cũng như về chất. An ninh của Ukraine đã trở thành yếu tố an ninh cho châu Âu. Hàng triệu người lao động nhập cư đã trở thành một thành tố của sự phát triển phồn vinh châu Âu, ngược lại việc họ chuyển ngoại tệ về Ukraine đã hỗ trợ cho gia đình và nền kinh tế nội địa nói chung. Tuy thế, những rào cản về chính trị, kinh tế và xã hội từ cả hai phía đã làm cản trở phần nào quá trình hợp tác đó [xem xem Minakov].

Kể từ lúc chiến tranh với Nga xảy ra, quan hệ giữa Ukraine và Liên Âu bước qua một giai đoạn mới khó lòng đảo ngược. Bây giời, ý muốn hội nhập không chỉ đến từ Ukraine, mà cộng đồng châu Âu tỏ ra có nhiều thiện cảm hơn với một quốc gia đã từng can đảm đứng vững trên tuyến đầu bảo vệ hòa bình và an ninh cho cả lục địa. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Cơ hội này sẽ định hình chính sách hậu chiến của Ukraine.

CHUYỂN ĐỔI TỪ KINH TẾ CHỈ HUY SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Ukraine, vốn từ lâu mang tính chất nông thôn, đến thời điểm độc lập năm 1991 có tỷ lệ đô thị hóa là 70%. Trái ngược với phía đông nghiêng về công nghiệp, phía Tây Ukraine vẫn phát triển mạnh về nông nghiệp. Ukraine dần dần phát triển thành một nước xuất khẩu nông sản quan trọng cho thế giới và có thể khẳng định danh tiếng là “vựa thóc của châu Âu”. Như ở hầu hết các quốc gia hậu Xô viết khác, nền kinh tế đã sụp đổ vào thập niên 1990, và vào cuối thập kỷ đó, mức lương trung bình hàng tháng chỉ là 67 euro [xem Kappeler (1) trang 17]. Một bộ phận đáng kể dân cư, đặc biệt là người già, người tàn tật và thanh niên sống trong cảnh nghèo khó và chịu nhiều thua thiệt về mặt xã hội. 

Bảy mươi năm kinh tế Xô viết đã để lại cho Ukraine một di sản nặng nề. Không những về cấu trúc kinh tế, mà cả phong cách hoạt động của doanh nhân và người lao động đều không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Một mặt, quyền lực chính trị mang bản chất tập trung, mặt khác, hoạt đông kinh tế thị trường mang bản chất phân tán và tự do cho từng doanh nhân riêng lẻ. Trong bối cảnh đó, doanh nhân nào biết luồn lách, lợi dung sơ hở của luật pháp và quan chức tham nhũng, kẻ đó có cơ hội làm giàu nhanh chóng. Đó là điều kiện tốt để các ông trùm kinh tế vươn lên lũng đoạn thị trường. Điều này đã xảy ra ở Nga cũng như Ukraine, nhất là ở thập niên cuối của thế kỷ 20.

Mục tiêu của chính sách kinh tế sau khi độc lập là thực hiện nền kinh tế thị trường tự do và nâng cao phồn vinh cho xã hội. Trong quá trình đó, đất nước đã trải qua những giai đoạn suy thoái trong thập niên 1990, rồi tăng trưởng mạnh trong sáu năm từ 2002 đến 2007 và trì trệ, bất ổn định trong thời gian còn lại. Quá trình tư nhân hóa lúc đầu được tiến triển tốt đẹp nhanh chóng, nhưng rồi bị những ông trùm kinh tế mới nổi lên lũng đoạn. Tài sản quốc gia rơi vào tay một số người ít ỏi. Giống như mọi quốc gia hậu Xô viết, tình trạng giàu nghèo quá chênh lệch trở thành cơ sở kinh tế của các bất ổn chính trị, một cơ hội mới cho các ông trùm gia tăng quyền lực. Giấc mơ kinh tế thị trường của năm 1991 rõ ràng không được hoàn thành. Việc tự do hóa ngành năng lượng và sử dụng diện tích canh tác mãi đến năm 2020 mới trở thành luật. Cũng giống như tự do chính trị, tự do kinh tế dao động từ thái cực này qua thái cực khác. Sự trì hoãn cải cách kinh tế, sự thống trị của các ông trùm kinh tế và chiến tranh triền miên sau 2014 đã làm cho Ukraine trở thành một trong những nước nghèo nhất châu Âu. Về mặt kinh tế tổng thể, đây rõ ràng là sự thất bại [xem xem Minakov].

Tuy nhiên, chúng ta cũng ghi nhận những thành quả trong một vài lĩnh vực chứng tỏ nền kinh tế đã có hiệu quả hơn và cho phép chúng ta lạc quan. Cơ quan nghiên cứu International Food Policy tính ra chỉ số về hiệu ứng sản xuất nông nghiệp của Ukraine, tức là tỉ lệ của sản lượng trên nguồn lực được dùng. Chỉ số này năm 1991 vừa độc lập còn là 82, đến 2005 đã lên đến 100 và năm 2016 là 148. Sự tu chỉnh bộ luật đất trồng trọt đã tăng tốc sự tăng trưởng [xem xem Schenk]. Ukraine cũng đã có cơ quan bảo vệ quyền tư hữu, đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, có một hệ thống tài chính hiện đại hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế, đã có một sự tăng trưởng mạnh về các doanh nghiệp sáng tạo, nhất là lĩnh vực IT. Ngày càng nhiều người trẻ du học tại các đại học danh giá thế giới và trở về phục vụ đất nước. Điều này không hề có vào năm 1991 [xem xem Starovoyt].

XÂY DỰNG NỀN TẢNG DÂN CHỦ

Sau 70 năm sống dưới chế độ toàn trị Xô viết, Ukraine đã trở thành một nước toàn trị, độc tài độc đảng. Tổ chức nhà nước cỏ đủ ba bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng tất cả các quyết định đều xuất phát từ một trung tâm, là bộ chính trị đảng cộng sản Ukraine. Vì thế, Ukraine khó lòng xây dựng những bộ luật hợp ý dân và hệ thống tư pháp cũng khó lòng đưa ra những phán quyết khách quan, phù hợp với luật pháp. Các quyền tự do căn bản dù được ghi trong hiến pháp, nhưng thực tế người dân không có quyền gì nhiều, làm thui chột tư duy sáng tạo của giới trí thức. Dù hiểu những khái niệm tự do dân chủ, nhưng người dân cũng khó lòng biết mình được hưởng quyền gì trong một hệ thống dân chủ hiện đại. 

Từ thực tiễn đó, xã hội Ukraine chưa được chuẩn bị chút nào cho một sự chuyển hóa triệt để, có thể làm một bước đoạn tuyệt với di sản Xô viết và xây dựng lại những định chế dân chủ hoàn toàn mới cho toàn bộ hệ thống. Điều này chúng ta có thể thấy qua cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên tháng 12 năm 1991. Người cộng sản trung kiên từ năm 24 tuổi, Leonid Kravtschuk trúng cử tổng thống đầu tiên với tỉ lệ 62% phiếu thuận, trong lúc Wjatschevlav Tschornovil, một người đấu tranh nhân quyền thân phương Tây chỉ được 23% phiếu bầu, mặc dù 92% người dân Ukraine bỏ phiếu thuận cho nền độc lập quốc gia và muốn tách rời Ukraine ra khỏi Liên Xô. Cổ động viên của Tschornovil thì bầu theo tiêu chuẩn chính trị, ý thức hệ dân chủ và “trở về châu Âu”. Những người bầu cho Kravtschuk thì lấy kinh tế làm tiêu chuẩn với hy vọng rằng, Ukraine có thể xây dựng một xã hội phồn vinh qua hợp tác song phương và bình đẳng với Nga. Ngoài ra, sau 70 năm họ đã quen với tư duy Xô viết “không nên lội ngược dòng” mà cần xây dựng bằng cách cải thiện hiện trạng, cho dù đó là “hiện trạng bất ổn” [xem xem Rjabtschuk].

Quá trình dân chủ hóa Ukraine trong thời kỳ hậu Xô viết bao gồm một loạt các bài toán lớn: Kiến tạo nhà nước quốc gia, xây dựng ý thức hệ đa nguyên, tự do hội họp, tự do báo chí, tự do lập đảng và lập hội, cải tổ hệ thống bầu cử tự do và công bằng. Về mặt định chế là xây dựng hệ thống nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, các bộ phận hoạt động hài hòa với nhau và có thể kiểm soát lẫn nhau, đặc biệt ngành tư pháp cần hoạt động độc lập và công minh.

Nền tảng để thực hiện những nhiệm vụ nói trên là nâng cao quyền lực của luật pháp, hạn chế quyền hành của quan chức thừa hành và xây dựng một xã hội dân sự có khả năng cũng như sức mạnh để đóng vai trò phản hồi và điều chỉnh. Cả ba nền tảng này đều đòi hỏi nhiều công sức, quyết tâm và thời gian để thực hiện.

Nhìn một cách tổng thể, Ukraine trong 30 năm qua đã thành công trong việc bảo vệ tự do và dân chủ chống lại những âm mưu trở lại chế độ chuyên chế. Giờ đây, Ukraine là một trong những quốc gia Đông Âu tự do nhất, và hơn hẳn những nước khác trong không gian hậu Xô viết ở Caucasus và Trung Á. Nhưng đồng thời, Ukraine vẫn còn thiếu những định chế dân chủ có hiệu quả và chế độ pháp quyền chưa vững mạnh. Các định chế chính trị vẫn còn quá yếu để tự xây dựng quyền lực, mặt khác vẫn chưa có năng lực để duy trì một nền dân chủ bền vững. Sự thống trị của các định chế không chính thức – tức một loại quyền lực nằm bên ngoài nhà nước – vẫn còn tồn tại trong hệ thống quản lý kinh tế và chính trị. Ukraine vẫn chưa xây dựng được những cơ chế hữu hiệu để tự bảo vệ chống lại nạn tham nhũng cũng như đối phó với những tổn thương có thể phát sinh từ những chấn động bên trong lẫn bên ngoài [xem xem Rjabtschuk].

Khác với hai nước láng giềng Nga và Belarus, quá trình hình thành nhà nước Ukraine đã diễn ra với tính chất dân chủ rất cao. Trong vòng 30 năm có sáu tổng thống được bầu lên thông qua sáu cuộc bầu cử tự do. Bầu cử quốc hội luôn diễn ra công bằng trong khuôn khổ luật pháp. Tự do báo chí và truyền thông được tôn trọng không kém các nước dân chủ phương Tây. Việc phát hành sách báo hoàn toàn tự do và đa số nằm trong tay tư nhân. Ý thức dân chủ của người dân và gắn liền với nó là sự phát triển xã hội dân sự cũng cao hơn hai nước láng giềng ở trên. Những cuộc can thiệp thành công vào chính trị thông qua các phong trào phản kháng có đông đảo người tham dự chứng tỏ không những trình độ ý thức cao của người dân mà còn cho thấy rằng, năng lực tổ chức của xã hội dân sự ngày càng được cải thiện qua những cuộc diễn tập lớn vào năm 2003 và hai cuộc Cách mạng Cam và Euromaidan.

./.

Ghi chú: Đây là một phần của cuốn sách 300 trang viết đầu năm 2022, ngay sau khi chiến tranh Ukraine bùng phát. Cuối cùng, công ty sách vẫn không xin được giấy phép xuất bản, (có lẽ nhận định thời sự không phù hợp với ban tuyên giáo chăng?). cho nên tôi chỉ giữ lại phần biên khảo lịch sử mang tính phi thời gian, gồm ba chủ đề:

(1) quan hệ giữa Đức – Nga – Ukraine,

(2) quan điểm lịch sử của Putin về Ukraine và

(3) lịch sử hình thành bản sắc dân tộc Ukraine.

Bài này là phần 3 của chủ đề số (3) ở trên.

Tôn Thất Thông, cập nhật tháng 10 năm 2025

(Còn tiếp:

Phần 4: Hai cuộc cách mạng bất bạo động)

Xem lại 2 bài trước và tải PDF:

PHẦN 1: COSSACK VÀ BẢN SẮC DÂN TỘC UKRAINE

PHẦN 2: Thế kỷ dài đấu tranh cho chủ quyền quốc gia

Trở về trang chủ
Xem thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông

Tài liệu tham khảo

(Các tài liệu sau đây được sử dụng cho các phần 1 – 4)

  1. Applebaum, Anne (1) – Red Famine. Stalin’s war on Ukraine (Nạn đói đỏ. Chiến tranh của Stalin lên Ukraine). Nhà xuất bản Penguin Books 2018. ISBN 978-0-141-97828-4.
  2. Applebaum, Anne (2) – Phỏng vấn bởi Wolfram Eilenberger, Đài Truyền thông Thụy Sĩ (SRF) trong loạt Điểm sáng của triết học: Von Stalin zu Putin – Das Erbe des Totalitalismus (Từ Stalin đến Putin – Gia tài của chủ nghĩa toàn trị). https://www.srf.ch/play/tv/sternstunde-philosophie/video/anne-applebaum-von-stalin-zu-putin—das-erbe-des-totalitarismus?urn=urn:srf:video:b4cc2f91-2148-45cf-931b-2ae5c9cea166
  3. Bartkowski, Maciej: Gewaltlose Widerstand in gewaltgeladener Situation (Phản kháng bất bạo động trong tình huống có bạo lực). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/181536/analyse-die-maidan-revolution-in-der-ukraine-gewaltloser-widerstand-in-gewaltgeladener-situation/
  4. Dickinson, Peter: How Ukraine’s Orange Revolution shaped twenty-first century geopolitics? (Cách mạng Cam tại Ukraine đã định hình địa chính trị thế kỷ 21 như thế nào?). https://www.atlanticcouncil.org/blogs/ukrainealert/how-ukraines-orange-revolution-shaped-twenty-first-century-geopolitics/
  5. Haran, Olexiy: Wie hat sich die Ukraine seit der Unabhängigkeit entwickelt? (Ukraine phát triển thế nào từ khi độc lập?). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/341251/kommentar-wie-hat-sich-die-ukraine-seit-der-unabhaengigkeit-entwickelt/
  6. Harari, Yuval Noah – Imperiale Kriege lohnen sich nicht mehr (Chiến tranh đế quốc không còn ích lợi gì).Phỏng vấn bởi Christian Staas, ZEIT Online 22-4-2022. https://www.zeit.de/2022/17/yuval-noah-harari-russland-ukraine-krieg/komplettansicht
  7. Kappeler, Andreas (1) – Die Ukraine, ein Land zwischen Ost und West (Ukraine ở giữa đông và tây). Info Aktuell số 28/2015 của Bundeszentrale für Politische Bildung (Trung tâm Giáo dục Chính trị Liên bang Đức).
  8. Kappeler, Andreas (2) – Die Kosaken. Geschichte und Legende (Người Cossack. Lịch sử và truyền thuyết). Nhà xuất bản C.H. Beck Verlag 2013. ISBN 978-3-406-64676-8.
  9. Kappeler, Andreas (3) – Revisionismus und Drohungen (Chủ nghĩa xét lại và sự đe dọa). Tạp chí OSTEUROPA, Tháng 7/2021, Trang 67–76
  10. Marples, David R.: 30 Jahre ukranische Unabhängigkeit (30 năm độc lập Ukraine). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/341259/kommentar-30-jahre-ukrainische-unabhaengigkeit/
  11. Minakov, Mykhailo: Drei Jahrzehnte der ukranischen Unabhängigkeit (Ba thập niên độc lập Ukraine). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/341260/kommentar-drei-jahrzehnte-der-ukrainischen-unabhaengigkeit/
  12. Portnov, Andrij: Dreizig Jahre Unabhängigkeit. Quo Vadis, Ukraine? (Ba mươi năm độc lập. Đi về đâu, Ukraine?). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/341262/kommentar-dreissig-jahre-unabhaengigkeit-quo-vadis-ukraine/
  13. Rjabtschuk, Mykola: Unabhängig, aber sowjetisch? (Độc lập, nhưng giống Xô viết?). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/341263/kommentar-unabhaengig-aber-sowjetisch/
  14. Schaeffer, Ute – Ukraine. Reportage aus einem Land im Aufbruch (Ukraine. Tường trình từ một quốc gia đang chuyển hóa). Nhà xuất bản Klaus Wagenbach Berlin. ISBN 978-3-8389-0589-1.
  15. Scherbakowa, Irina và Karl Schlögel – Der Russland-Reflex (Phức hợp Nga). Nhà xuất bản Edition Körber-Stiftung. ISBN 978-3-89684-169-8.
  16. Starovoyt, Irina: Welche Bedeutung hat das Ende der Sowjetunion für die heutig Ukraine? (Chấm dứt thời Xo Viết có ý nghĩa gì cho Ukraine ngày nay?). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/341265/kommentar-welche-bedeutung-hat-das-ende-der-sowjetunion-fuer-die-heutige-ukraine/
  17. Sumlenny, Serjei – Die Parlamentswahlen 2019 in der Ukraine (Bầu cử quốc hội 2019 tại Ukraine). https://www.bpb.de/themen/europa/ukraine/294073/analyse-die-parlamentswahlen-2019-in-der-ukraine-k-ein-sprung-ins-ungewisse/
  18. Widmann, Arno – Điểm sách “Entscheidung in Kiew. Die Chronik eines angekündigten Todes” của Karl Schlögel (Quyết định ở Kiew. Biên niên sử của một cái chết được báo trước). https://www.fr.de/kultur/gesellschaft/karl-schloegel-entscheidung-in-kiew-die-chronik-eines-angekuendigten-todes-91381527.html
  19. ZDF History – Im Fadenkreuz Moskaus: Die Geschichte der Ukraine (Trong gọng kềm của Moscow: Lịch sử Ukraine). https://www.zdf.de/dokumentation/zdf-history/die-geschichte-der-ukraine-100.html

./.