Tác giả: Phạm Hải Hồ
Khi nhấm nháp ly cà phê, có khi nào bạn nghĩ quá trình chế biến trái cà phê thành thức uống có tác dụng kích thích tư duy ấy đã loại bỏ bao nhiêu chất thải? Bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu biết rằng cơ thể bạn chỉ hấp thụ 0,1 % khối lượng trái cà phê, còn 99,9 %, nghĩa là hầu như toàn thể sinh khối của nó là chất thải, gồm khoảng phân nửa là thịt quả và phân nửa kia là bã cà phê. Với sản lượng cà phê hai mùa vụ 2013/14 và 2014/15 độ chừng 1,8 triệu tấn [1], hàng năm ở Việt Nam có gần 900 ngàn tấn thịt quả thối rữa, làm ô nhiễm môi trường nước và phát thải một lượng lớn khí nhà kính methan. Chỉ một phần nhỏ thịt quả được chế biến thành thức ăn gia súc bằng cách ủ men [2] và một ít bã cà phê rải quanh gốc cây làm phân bón. Trong khi đó, đã có những công nghệ tương đối đơn giản sử dụng nguyên liệu là chất thải cà phê.
Mô hình cà phê, nấm và gia súc
Đầu thế kỷ 21, nấm đã vượt qua cà phê, trở thành mặt hàng trao đổi nhiều thứ hai trên thế giới,chỉ sau dầu thô. Nấm mọc trên lignocellulose. Đó lại là thành phần chủ yếu của chất thải phát sinh với số lượng khổng lồ trong quá trình chế biến từ trái cà phê đến thức uống được ưa chuộng.Vì thế, việc kết hợp nấm với chất thải cà phê gần như là một điều hiển nhiên và đã được phát triển thành một mô hình tương tự như một hệ sinh thái, nghĩa là một hệ thống gồm nhiều loài sinh vật sống cộng sinh, trong đó chất thải của loài này là dưỡng chất cho một loài khác. Mô hình ấy được phát triển bởi nhiều nhà khoa học, doanh nhân tài giỏi và đầy nhiệt tâm.
Năm 1990, Giáo sư Shuting Chang thuộc Đại học Trung Hoa ở Hongkong đã chứng minh rằng bã cà phê là một cơ chất lý tưởng cho việc canh tác nấm, nhất là nấm sò và nấm đông cô tươi.Ngay cả linh chi, loại nấm thuốc được đánh giá cao, cũng phát triển tốt trên bã cà phê. Từ năm 1997, chị kỹ sư hóa người Colombia Carmenza Jaramillo đã dành sáu năm nghiên cứu cách trồng nấm nhiệt đới trên mọi chất thải từ cà phê: cành nhánh, lá, vỏ cây, vỏ thóc và bã.
Trong một phạm vi nghiên cứu khác, TS Ivanka Milenkovic từ Đại học Belgrade đã xác định phần thể sợi còn lại trong cơ chất sau khi thu hoạch quả thể hay tai nấm (tức là phần ăn được, gọi là nấm trong ngôn ngữ thông thường) có thể dùng làm thức ăn chất lượng cao cho gia súc mà lượng thịt hay sữa sản xuất không giảm sút so với thức ăn truyền thống. Ngoài ra, cũng có thể ủ cơ chất sau khi thu hoạch nấm thành phân bón hữu cơ.
Tóm lại, trong mô hình trên đây, chất thải cà phê được dùng làm cơ chất trồng nấm; nấm cung cấp thực phẩm cho người và thức ăn gia súc hay phân hữu cơ chất lượng cao. Nếu dùng phân hữu cơ và phân gia súc để bón cây thì đó là một hệ thống khép kín không phát thải, giống hệt một hệ sinh thái.
Các chương trình trồng nấm theo mô hình ấy đã được thực hiện thành công ở nhiều nước: ẤnĐộ, Colombia, Zimbabwe… và ngay cả ở hai thành phố San Francisco và Berlin. Riêng bang ElHuila của Colombia có hơn 100 công ty sản xuất nấm từ cà phê, góp phần thay thế cây coca chứa chất ma túy.
Tính bền vững của mô hình cà phê, nấm và gia súc
Ngoài sự giảm thiểu chất thải và tác động môi trường, việc thực hiện mô hình nói trên còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế – xã hội đáng kể. Người ta ước tính mỗi mẫu Anh (khoảng 0, 405 héc ta) trồng cà phê có thể đem lại việc làm cho hai người, với nguồn nguyên liệu miễn phí là thịt quả cà phê. Hiện nay, cả nước ta trồng 700.000 héc ta cà phê nên có tiềm năng tạo ra gần 3.500.000 việc làm (toàn thế giới: 50 triệu, hoặc 100 triệu nếu sử dụng cả xác trà, cùi bắp, rơm rạ, lục bình, cành nhánh từ vườn cây: những loại sinh khối cũng được chứng minh là thích hợp để trồng nấm). Đó là việc làm ở những vùng trồng cà phê. Ở thành phố, nơi có nhiều tiệm cà phê, còn có khả năng trồng nấm trên bã cà phê. Theo nhà doanh nghiệp Hoa Kỳ Nikhil Arora, “chỉ cần tám đến mười tiệm cà phê cũng đủ để lập một đơn vị sản xuất nấm, mỗi đơn vị có thể tạo ra mười việc làm.”Rất tiếc chưa có thống kê về số tiệm cà phê ở Việt Nam nên không thể tính được tiềm năng việclàm trong phạm vi này, nhưng ước tính trên toàn thế giới có thể tạo ra 100.000 việc. Alex Velez,người cùng Nikhil Arora thực hiện dự án Back to the Roots Venture, cho biết việc sử dụng bã càphê còn có ưu điểm là nó được khử trùng bởi nước sôi hay hơi nước nóng nên “có thể tiết kiệm 80% chi phí năng lượng cần cho việc chuẩn bị cơ chất trồng nấm”. Hơn nữa, nhờ tác dụng kích thích của lượng caffein còn lại trong bã, nấm sẽ mọc nhanh gấp hai, ba lần bình thường.
Những tác nhân thay đổi
Mô hình tốt nhất cũng chẳng ích gì nếu không có những con người tích cực áp dụng và phổ biến rộng rãi. Đó là những “tác nhân thay đổi” hoạt động trong các lĩnh vực doanh nghiệp và xã hội.Trong trường hợp này, tiêu biểu là chị Carmenza. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng phương pháp trồnng nấm trên chất thải cà phê, chị đã thành công trong việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế, tập huấn và khích lệ những phụ nữ khác thành lập doanh nghiệp vi mô. Đến 2004, nhờ các chương trình tập huấn của chị, khoảng mười ngàn gia đình đã có thêm thu nhập và thực phẩm bổ dưỡng.
Một tác nhân thay đổi khác là Chido Govero ở Zimbabwe. Mồ côi cha mẹ từ khi lên bảy, Chi do đã phải làm việc để nuôi đứa em trai và người bà bị lòa. Lúc mười hai tuổi, Chido học được cách trồng nấm trên chất thải nông nghiệp. Sau vài tháng, Chido đã thoát nghèo và có khả năng tự túc.Rồi Chido nhận học bỗng của quỹ Zero Emission Research Initiative [3] (viết tắt: ZERI) để học hai năm tại Đại học châu Phi ở thành phố Mutare (Zimbabwe) và nắm vững kỹ thuật nuôi cấy mô nấm. Chido chia sẻ kinh nghiệm của mình với những cô bé mồ côi khác, dạy chúng cách trồng nấm trên chất thải nông nghiệp sẵn có ở địa phương, kể cả lục bình, một loài xâm hại mọc tràn lan gần khắp châu Phi. Nhờ sự hướng dẫn tận tâm của Chido, những đứa trẻ đáng thương ấy đã có năng lực tự tạo ra sinh kế và nấm thực phẩm cho mình. Chido nguyện sẽ hoạt động không ngừng nghỉ cho tới khi nào không còn những bé gái mồ côi có nguy cơ bị lợi dụng nữa.
Năm 2009, Chido Govero và Carmenza Jaramillo đã đại diện quỹ ZERI phát biểu tại hội nghị của Hiệp hội Cà phê Thượng hạng châu Mỹ (Specialty Coffee Association of America) tổ chức ở thành phố Atlanta (bang Georgia, Hoa Kỳ) và nhận giải Bền Vững của hiệp hội này. Sau đó, họ đi San Francisco (bang California) tập huấn về cách thức chế biến bã cà phê thành cơ chất trồng nấm lý tưởng; hai trong số những học viên của họ là Alex Velez và Nikhil Arora nói trên. Rồi họ đến thành phố Marin gần đó để tiếp tục phổ biến kiến thức chuyên môn của mình. Như thế,không những hai phụ nữ trẻ tuổi ấy giúp hàng ngàn trẻ mồ côi và hộ nghèo ở Zimbabwe, Colombia và những nước đang phát triển khác, họ còn dạy người Mỹ phương pháp trồng nấm tiên tiến nữa! Tại sao không?
Nấm trồng trên chất thãi nông nghiệp và bã cà phê ở Ghana
(picture courtesy of Prof. Gunter Pauli).
Arora và Velez sáng lập công ty Back to the Roots Venture thu thập bã cà phê từ những tiệm trong vùng vịnh San Francisco để làm cơ chất trồng nấm. Họ sản xuất và cung cấp nấm sò, phân hữu cơ, bộ trồng nấm tại nhà cho thị trường địa phương. Như vậy, Back to the Roots Venture hoạt động hoàn toàn không chất thải, và hai sáng lập viên của nó đã giành được nhiều giải thưởng, như giải nhì trong cuộc thi toàn cầu World Challenge do đài BBC và tạp chí Newsweek tổ chức với mục đích tìm những dự án hay doanh nghiệp nhỏ có tính sáng tạo (2009) và giải “25 nhà doanh nghiệp dưới 25 tuổi” của tập san Businessweek (2010).
Mô hình cà phê – nấm – gia súc được thực hiện thành công ở nhiều nước trên thế giới là một mô hình bền vững theo đúng nghĩa của từ. Nó giúp bảo vệ môi trường nhờ giảm thải tối đa, đồng thời tăng thu nhập, tạo ra nhiều việc làm và góp phần bảo đảm an ninh lương thực. Nếu như các“vua cà phê” trích một phần doanh thu đáng kể để hỗ trợ những cộng đồng trồng cà phê theo mô hình nói trên, thì họ rất đáng được tôn vinh là những nhà doanh nghiệp xã hội.
Các hệ thống kinh tế gồm nhiều đơn vị hoạt động theo gương những hệ sinh thái là thực sự bền vững với cả ba đặc tính của sự bền vững:
- không chất thải vì những gì một đơn vị không sử dụng là nguyên liệu cho một hay vài đơn vị khác (thân thiện môi trường),
- tiết kiệm chi phí cho nguyên liệu và việc xử lý chất thải, cũng như chi phí vận chuyển nếu các đơn vị họp thành cụm công – nông nghiệp (hiệu quả kinh tế),
- không cạnh tranh mà hợp tác chặc chẽ với nhau, tạo công ăn việc làm cho nhiều người (có tính xã hội).
Các hệ thống, cụm công – nông nghiệp như thế sẽ kết hợp thành một nền kinh tế mới mà GS Gunter Pauli gọi là “nền kinh tế xanh lam”4. Trong quyển sách mang tên ấy, ông giới thiệu 100 dự án đã thành cônng hoặc có triển vọng thành công và tin chắc rằng sau 10 năm thực hiện, chúng sẽ tạo ra 100 triệu việc làm trên thế giới.
Phạm Hải Hồ
Ghi chú
[1] Anh Tùng, “Cà phê Việt Nam những năm qua”, Tạp chí Thông Tin Khoa Học và Công Nghệ số 3/2015. Từ cuối thế kỷ 20, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê nhiều thứ hai trên thế giới, chỉ sau Brazil. Tuy nhiên vì kém chất lượng, cà phê nước ta không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, việc di dân không kiểm soát đến Tây Nguyên, phá rừng để mở rộng diện tích trồng cà phê không những hủy hoại môi trường sinh thái mà còn gây bất an cho những cộng đồng truyền thống ở địa phương.
[2] Lê Hoa, “Chế biến thịt quả cà phê làm thức ăn chăn nuôi”, Nông nghiệp Online 22/11/2010. Lê Hoa, “Chế biến thịt quả cà phê làm thức ăn chăn nuôi”, Nông nghiệp Online 22/11/2010.
[3] Tạm dịch là “Sáng kiến nghiên cứu về sự không phát thải”; quỹ ZERI do giáo sư đồng thời là nhà doanh nghiệp Gunter Pauli thành lập năm 1994 nhằm “biến đổi những ý tưởng, tầm nhìn, kiến thức khoa học thành dự án cụ thể”.
Tài liệu
Chido Govero, “The Future of Hope”, Second revised edition, published by the ZERIFoundation, 2009.
Nguyễn Thùy Châu, “Nghiên cứu công nghệ sản xuất thịt quả cà phê lên men làm thức ăn giasúc”, Agroviet 12/05/2009 (theo TTXVN).
Gunter Pauli, “The Blue Economy, 10 years, 100 innovations, 100 million jobs” – “Nền kinh tế xanh lam 10 năm thực hiện, 100 đổi mới, 100 triệu việc làm”, Phạm Hải Hồ dịch, Nhà xuất bản Thời Đại, 2014.
Phạm Hải Hồ, “Từ điển phát triển bền vững Việt – Anh – Đức & Anh – Việt – Đức”, NXB Giáodục TP. Đà Nẵng, 2010.