Tác giả: Nguyễn Hữu Đổng
Văn hoá học chưa được giới học thuật làm rõ. Bằng tư duy sự thực, tác giả làm sáng tỏ thực chất khái niệm này; đồng thời, khuyến nghị nhận thức đúng đắn thuật ngữ học, văn hoá học, xây dựng văn hoá học thuật trong quốc gia.
Cultural studies have not been clarified by academics. With real thinking, the author clarifies the essence of this concept; simultaneously, recommends propre awareness of academic terminology, cultural studies, build academic culture in the country.
Thực chất sự thật văn hoá học
Sự thật là “nói về cuộc sống chân thật của các cộng đồng người” [1]. Theo đó, thực chất sự thật văn hoá học là như sau: cá nhân học không chân thật không có văn hoá; nhóm người học chưa chân thật chưa có văn hoá; cộng đồng người học chân thật có văn hoá. Điều đó có nghĩa, văn hoá học được hiểu là người học chân thật hay người học có văn hoá; người học không chân thật là người không văn hoá, hay con người chưa chân thật trong học tập.Nói cách khác, học gắn liền với con người chân thật; bởi vì, học không chân thật chẳng khác gì con vẹt học, dạng loài vật bắt chước tiếng nói của loài người. Do vậy, văn hoá học là con người học trung thực, hay người có văn hoá học; học không văn hoá không phải học của con người, mà là học của con vẹt (but the parrot’s learning), bởi dù có học nhưng không hiểu được vấn đề. Văn hoá học có quan hệ với các lĩnh vực khác nhau của xã hội loài người; chẳng hạn, như: quan hệ với con người và chủ nghĩa, nhân cách sống, lịch sử, chính trị, kinh tế, hoà bình hay nguồn gốc loài người.
Văn hoá học quan hệ với con người và chủ nghĩa như sau: cá nhân chủ nghĩa là không có văn hoá học, chủ nghĩa cá nhân là chưa có văn hoá học, cá nhân không chủ nghĩa là có văn hoá học hay cá nhân học có văn hoá. Trong quan hệ này, chủ nghĩa được nhìn nhận là điều xấu, bởi vì người chủ nghĩa không văn hoá, còn người không chủ nghĩa thì có văn hoá.Điều đó có nghĩa, cá nhân trung thực là cá nhân không chủ nghĩa, hay cá nhân học không thiên lệch; học không thiên lệch là người học chân thật, học có văn hoá. Gắn văn hoá học với con người làm việc cho thấy thêm rằng, người thiếu văn hoá học làm việc không chân thật, con người không tự giác làm việc trung thực; người chưa văn hoá học làm việc chưa chân thật, con người chưa tự giác làm việc trung thực; người có văn hoá học biết làm việc chân thực, con người biết tự giác làm việc trung thực, hay người trung thực có trách nhiệm với công việc. Theo đó, công việc của con người gắn với văn hoá học; học chân thật công việc có chất lượng hiệu quả.Gắn văn hoá học với con người phát triển cho thấy rõ thêm rằng, chủ nghĩa cá nhân là cá nhân không phát triển, chủ nghĩa nhóm là nhóm thiếu phát triển, cộng đồng không chủ nghĩa là cộng đồng phát triển hay cộng đồng có văn hoá.Tức cá nhân chân thật là cá nhân phát triển, hay cá nhân có văn hoá; cá nhân không văn hoá là cá nhân không phát triển. Chẳng hạn, học theo văn mẫu là học chưa văn hoá, học thiếu sự phát triển; học văn chân thật là học có văn hoá, học có sự phát triển; học tủ là học thiếu văn hoá, học thiếu phát triển; còn học chân thật không tủ là học văn hoá, học có sự phát triển; hay “khoá tu học Phật” không văn hoá (or “Buddhist study retreat” without culture) [2], còn học chân thật không tu học Phật văn hoá (as for true learning, we do not practice Buddhist culture). Gắn văn hoá học với con người phát triển bền vững cũng cho thấy rõ thêm rằng, cá thể người chủ nghĩa không phát triển bền vững, chủ nghĩa tập thể không phát triển bền vững, chủ nghĩa xã hội cũng không phát triển bền vững, còn xã hội không chủ nghĩa phát triển bền vững (and society does not promote sustainable development);tức con người sai lầm khi “xây dựng chủ nghĩa xã hội” [3], như có một số nước đang kiên trì theo đuổi. Điều đó có nghĩa, con người trung thực là phát triển bền vững; phát triển bền vững cần những con người trung thực, hay cần những con người có văn hoá học.
Văn hoá học và nhân cách sống có quan hệ như sau: cá nhân không trung thực cá nhân không có nhân cách; cá nhân thiếu trung thực cá nhân thiếu nhân cách; cá nhân trung thực là cá nhân có nhân cách. Trong quan hệ này, nhân cách được nhìn là đẹp người, người thiếu nhân cách là người xấu. Tức là, người có văn hoá học có nhân cách sống đẹp; hay văn hoá học là nhân cách sống đẹp. Gắn văn hoá học với nhân cách sống văn minh cho thấy thêm rằng, cá nhân thiếu chân thật thiếu nhân cách văn minh; cá nhân chưa chân thật chưa nhân cách văn minh; cá nhân chân thật là có nhân cách văn minh.Điều đó có nghĩa, người trung thực là có cách sống đẹp văn minh; người thiếu trung thực thiếu cách sống đẹp văn minh. Chẳng hạn, người giả dối là người thiếu nhân cách, là người ứng xử xấu; người dùng bạo lực là người không có nhân cách, là người ứng xử không đẹp; người yêu người là người có nhân cách, là người có nhân cách sống đẹp văn minh, biết cảm thông và yêu thương nhau trong cuộc sống.
Văn hoá học và lịch sử quan hệ như sau: học không chân thật không có lịch sử văn hoá, học chưa chân thật chưa có lịch sử văn hoá, học chân thật là có lịch sử văn hoá, hay loài người chân thật có lịch sử văn hoá. Trong quan hệ này, lịch sử chân thật được nhìn là văn hoá, lịch sử thiếu chân thật là thiếu văn hoá.Tức là, loài người học chân thật có lịch sử trung thực; loài người học thiếu chân thật sử thiếu trung thực. Chẳng hạn, học cách quân sự giết người là sử không trung thực, học cách dân sự yêu người là sử trung thực; hay học cách cầm quyền là sử thiếu trung thực, học bảo đảm quyền con người là sử trung thực (learning to ensure human rights is honest history). Gắn văn hoá học với lịch sử phát triển cho thấy thêm rằng, học thiếu chân thật thiếu lịch sử phát triển, học chưa chân thật cũng thiếu lịch sử phát triển, học chân thật là lịch sử phát triển, hay loài người chân thật có lịch sử phát triển. Tức là, loài người học chân thật là loài người phát triển; loài người học thiếu chân thật loài người thiếu phát triển, hay loài người thiếu hiểu biết cội nguồn của mình. Chẳng hạn, học sử không trung thực không hiểu nguồn gốc loài người, học sử trung thực là hiểu nguồn gốc loài người; học sử theo thuyết duy lý không phát triển, học sử theo thuyết duy nghiệm chưa có phát triển, còn học sử không theo học thuyết là phát triển. Nói cách khác, người không hiểu sử không hiểu nguồn gốc loài người (people who do not understand history do not understand human origins); lịch sử theo “triết học duy lý”, hay duy nghiệm là không khoa học [4].
Gắn văn hoá học với chính trị cho thấy rằng, học thiếu chân thật chính trị thiếu văn hoá; học chưa chân thực chính trị vẫn thiếu văn hoá; học chân thực là chính trị có văn hoá, hay có “văn hoá chính trị” – tức chính quyền chân thật xây dựng, thực hiện các mục tiêu phát triển tự nhiên, xã hội, con người, quốc gia. Gắn văn hoá học với chính trị phát triển cho thấy thêm rằng, học không chân thật chính trị không phát triển; học chưa chân thật chính trị chưa phát triển; học chân thật là có chính trị phát triển.Điều đó có nghĩa, chính trị chân thật có văn hoá học phát triển; chính trị thiếu chân thật thiếu văn hoá học, thiếu văn hoá chính trị phát triển. Theo đó, học chân thật có “văn hoá phát triển” – tức phát triển có văn hoá; đồng thời có “văn hoá chính trị phát triển” – tức chính trị có văn hoá bảo đảm hài hoà môi trường sống, công bằng bình đẳng công lý giá trị của con người. Gắn văn hoá học với quyền chính trị cho thấy rõ thêm rằng, học không chân thật cá nhân không có quyền chính trị, người không có quyền phát triển; học chưa chân thật nhóm chưa có quyền chính trị, người chưa có quyền phát triển; học chân thật cộng đồng có quyền chính trị, người là có “quyền phát triển” – tức người có chân lý sống phát triển nhân văn [5]. Nói cách khác, con người học chân thật là tìm thấy chân lý; người học không chân thực không tìm thấy chân lý (inauthentic learners cannot find the truth).
Gắn văn hoá học với kinh tế cho thấy rằng, học chưa chân thật sản xuất thiếu phát triển, học thiếu chân thật kinh doanh không phát triển; học chân thực là có sản xuất kinh doanh dịch vụ phát triển.Điều đó có nghĩa, sản xuất kinh doanh dịch vụ chân thực là kinh tế phát triển. Tức là, học chân thật có “kinh tế phát triển” – khái niệm biểu hiện bảo đảm sự hài hoà về môi trường sống, sự công bằng, bình đẳng, công lý về sản xuất kinh doanh dịch vụ của các công ty tư nhân, cổ phần, công ích trong quốc gia. Gắn văn hoá học với kinh tế phát triển cho thấy thêm rằng, học thiếu chân thật kinh tế thiếu phát triển bền vững; học chưa chân thật kinh tế chưa phát triển bền vững; học chân thực “kinh tế phát triển bền vững” – khái niệm biểu hiện bảo đảm sự hài hoà lâu bền về môi trường sống, sự công bằng, bình đẳng, công lý vững chắc về sản xuất kinh doanh dịch vụ của các công ty tư nhân, cổ phần, công ích trong quốc gia, xã hội loài người.
Gắn văn hoá học với chiến tranh và hoà bình cho thấy rằng, học không chân thật không có hoà bình (gây ra chiến tranh), học chưa chân thật chưa có hoà bình, học chân thật là có hoà bình, hay loài người chân thật là có hoà bình, không có xung đột nội chiến và chiến tranh. Gắn văn hoá học với con đường hoà bình cho thấy thêm rằng, học không chân thật không có con đường hoà bình (có con đường chiến tranh), học chưa chân thật chưa có con đường hoà bình, học chân thật là có con đường hoà bình.Điều đó có nghĩa, có văn hoá học là có hoà bình và có con đường hoà bình; không có văn hoá học là không có hoà bình và không có con đường hoà bình.Do vậy, cần học có văn hoá để có con đường hoà bình của mỗi quốc gia; tức cần xây dựng con đường độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự trong quốc gia, xã hội loài người.
Gắn văn hoá học với nguồn gốc loài người cho thấy rằng, học không chân thật không hiểu nguồn gốc loài người, học chưa chân thật chưa hiểu nguồn gốc loài người, học chân thật là hiểu nguồn gốc loài người, hay hiểu cội nguồn sinh ra sự sống loài vật loài người. Điều đó có nghĩa, con người chân thật hiểu được nguồn gốc của mình; đồng thời, hiểu được nguồn gốc sự sống loài vật phát triển. Chẳng hạn, người tư duy thật hiểu được loài người phát triển, cơ sở khoa học hình thành nguồn gốc loài người; người thiếu tư duy thật chỉ thấy người tiến hoá, hay“tiến hoá của loài người” – không phải cơ sở hình thành nguồn gốc loài người [6]. Nói cách khác, người học văn hoá hiểu được nguồn gốc các loài; người học trung thực là tìm thấy được chân lý, hiểu được khoa học về vũ trụ, hiểu được con đường của vũ trụ, hiểu được nguồn gốc sự sống, tôn trọng bảo vệ được sự sống trong vũ trụ (respect and protect life in the universe).
Nhận thức đúng đắn thuật ngữ học, văn hoá học, xây dựng văn hoá học thuật trong quốc gia
Hiện nay cộng đồng trong các quốc gia hiểu biết văn hoá học còn bất cập.Ngay cả khái niệm văn hoá, thuật ngữ học đều chưa được hiểu đúng sự thực. Chẳng hạn, khi phân tích khái niệm văn hoá, giới nghiên cứu chỉ nhìn bản chất tính chất chưa chân thật, chứ không nhìn thực chất văn hoá chân thật, tức giới nghiên cứu không hiểu rõ rằng, văn hoá là sự chân thật của con người, người không chân thật là thiếu văn hoá; hay khi nhìn nhận thuật ngữ “học”, giới nghiên cứu chỉ nhìn tính chất bản chất thiếu trung thực, chứ không nhìn thực chất của học trung thực (rather than looking at the essence of honest learning).Tức giới nghiên cứu không hiểu rằng, học chính là sự chân thực của con người;người học không chân thực là “văn bằng giả” [7]; người không chân thực không hiểu được chính mình (people who are not authentic cannot understand themselves). Do vậy, bằng tư duy thực, tác giả khuyến nghị như sau:
1) Nhận thức đúng đắn thuật ngữ học:
Văn hoá học gắn liền với thuật ngữ học.Tuy nhiên, học chưa được giới học thuật làm rõ sự thật. Học bao gồm các mặt chủ yếu như sau: cá nhân người học không chân thật tri thức thiếu khoa học, không liêm chính học thuật; nhóm người học chưa chân thật tri thức thiếu khoa học, cũng không liêm chính học thuật; cộng đồng học chân thực tri thức khoa học, là liêm chính học thuật. Điều đó có nghĩa, để nhận thức đúng đắn thuật ngữ học, giới nghiên cứu cần phân biệt rõ các mặt sau: học chưa chân thật học chưa liêm chính (chưa đúng); học không chân thật học không liêm chính (sai); học chân thật là học liêm chính (đúng), tức liêm chính học thuật, dạng mô hình: học chưa liêm chính – học liêm chính – học không liêm chính. Nói cách khác, nhận thức đúng đắn học cần sự chân thực của con người; người không chân thực học không đứng đắn, tức học sai trái không văn hoá học (that means learning wrongly without learning culture). Chẳng hạn, học chiến tranh học tiến hoá là sai; chưa học chiến tranh học lùi hoá chưa đúng; không học chiến tranh học tạo hoá là đúng đắn (it is right not to study war but to study creation); bởi vì, chiến tranh tiến hoá không gắn với phát triển, không chiến tranh (hoà bình) tạo hoá gắn với phát triển.Theo đó,học nhà nước xã hội chủ nghĩa là không đúng,học nước có xã hội không chủ nghĩa là đúng; văn học chiến tranh là sai, văn học hoà bình là đúng.Do vậy, sai lầm “văn học chiến tranh” [8], còn đúng đắn văn học phi chiến tranh; đồng thời, cần xây dựng xã hội không chủ nghĩa, chứ không thể là “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” [9], như có người nghiên cứu ấu trĩ nêu ra.
2) Nhận thức đúng đắn văn hoá học:
Văn hoá học chưa được làm rõ sự thật. Khái niệm này gồm các mặt chủ yếu sau: nhóm người học chưa chân thật chưa văn hoá học; cá nhân học thiếu chân thật thiếu văn hoá học; cộng đồng người học chân thực có văn hoá học. Tức là, để nhận thức đúng đắn văn hoá học, giới nghiên cứu cần hiểu các mặt sau: học không chân thật học không văn hoá; học chưa chân thật học thiếu văn hoá; học chân thật là học văn hoá, dạng mô hình: học chưa chân thật học thiếu văn hoá – học chân thật học văn hoá -học không chân thật học không văn hoá. Nói cách khác, nhận thức đúng đắn văn hoá học gắn liền với sự chân thật của con người; người không chân thật không có văn hoá học, hay học không văn hoá; chẳng hạn, “học nữa” [10], hay học mãi mà không có sự trung thực là học vẫn thiếu văn hoá, học như vậy chưa có ích cho loài người. Do đó, người học cần phải có sự chân thật; học không chân thực là trở thành loài vật giết hại lẫn nhau, gây khổ đau cho loài người trên trái đất (causing suffering to humans on earth).
3)Xây dựng văn hoá học thuật trong quốc gia:
Văn hoá học gắn liền với văn hoá học thuật.Tuy nhiên, khái niệm này chưa được làm rõ sự thật. Văn hoá học thuật gồm các mặt chủ yếu sau: loài người không chân thật thiếu văn hoá học thuật;loài người thiếu chân thực thiếu văn hoá học thuật; loài người chân thực có văn hoá học thuật. Tức là, để nhận thức được văn hoá học thuật, giới nghiên cứu cần hiểu rõ các mặt sau: bản chất học thuật là chưa văn hoá; hình thức học thuật không có văn hoá; thực chất học thuật có văn hoá, dạng mô hình: bản chất học thuật là chưa văn hoá –thực chất học thuật có văn hoá –hình thức học thuật không có văn hoá. Nói cách khác, để xây dựng văn hoá học thuật trong quốc gia, giới lãnh đạo nghiên cứu cần hiểu rằng, khái niệm học thuật chính là văn hoá học (the main academic concept is cultural studies), hay văn hoá học chính là văn hoá học thuật (or cultural studies is academic culture). Do vậy, học khái niệm học thuật cần sự chân thật; học chân thật xây dựng được văn hoá học thuật trong quốc gia, xã hội loài người.
Kết luận
Văn hoá học là học chân thực của con người; con người không chân thực không có văn hoá học, hay không có thuật ngữ khái niệm ngôn ngữ học. Hiện nay, khái niệm này chưa được làm rõ thật sự học thiếu trung thực, con người không văn hoá; sự thật học cũng thiếu trung thực, con người chưa văn hoá; sự thực học trung thực, con người có văn hoá. Đây được nhìn nhận là nguyên nhân làm cho quốc gia, loài người thiếu văn hoá học, hay thiếu “ngôn ngữ khoa học” – cơ sở tìm thấy nguồn gốc loài người đúng đắn; đồng thời là cơ sở để ngăn ngừa chiến tranh, xây dựng xã hội loài người thái bình thịnh vượng. Do đó, để phát triển bền vững văn hoá con người các dân tộc khoa học và nhân văn, đáp ứng yêu cầu của quốc gia văn minh, công dân cần nhận thức đúng đắn thuật ngữ học, văn hoá học, đồng thời, cùng nhau xây dựng văn hoá học thuật trong quốc gia, xã hội loài người.
………………
[1] https://diendankhaiphong.org/su-that-khai-niem-tu-tuong-va-thien-chua/
[2] https://plo.vn/khoa-tu-mua-he-giao-hoi-phat-giao-viet-nam-quy-dinh-ra-sao-post796250.html.
[4] https://diendankhaiphong.org/thoi-dai-khai-sang-va-nen-triet-hoc-hien-dai/
[5] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-quyen-1948-65774.aspx
[6] https://vnexpress.net/qua-trinh-tien-hoa-cua-loai-nguoi-2948648.html
[7]https://thanhnien.vn/xu-ly-nghiem-nguoi-su-dung-bang-gia-185231127200536823.htm
[8] https://cand.com.vn/Chuyen-de/van-hoc-chien-tranh-co-con-cho-trong-long-ban-doc–i692093/
[9] https://nhandan.vn/khang-dinh-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-post794927.html
………………
Nguyễn Hữu Đổng, Ngày 04/07/2024

